Lược sử Giáo họ Xuân Phong

Thứ hai - 20/10/2025 09:56
xuanphong
 
GIÁO HỌ BIỆT LẬP XUÂN PHONG
(Bổn mạng: Trái tim vô nhiễm Đức Mẹ)

I. VỊ TRÍ – ĐỊA LÝ

Giáo họ biệt lập Xuân Phong bao gồm xóm 6 của thôn Xuân Phương, xã Tuy Phước Đông. Trên tỉnh lộ từ Qui Nhơn đi Gò Bồi, sau khi qua cầu Đội Thông một đoạn ngắn và cách Gò Bồi khoảng gần 2km, có 2 con đường bê tông dẫn về phía Tây lên tháp Bình Lâm của vương quốc Chămpa, và một con đường bê tông nhỏ hơn, dài khoảng 500m dẫn về phía Đông, đến nhà thờ Xuân Phong.

Địa bàn của giáo họ Xuân Phong nằm phía Nam cánh đồng Kim Trì của xã Tuy Phước Đông và được hình thành do hiện tượng sa bồi của một dòng sông. Một nhánh chính của sông Kôn là sông Tân An sau khi qua cầu Tuân Lễ thuộc thôn Tuân Lễ của xã Tuy Phước Bắc (xã Phước Hiệp cũ) một đoạn thì phân thành hai nhánh. Nhánh phía Bắc lớn hơn gọi là sông Gò Tháp[1] chảy xuống Gò Bồi rồi đổ vào đầm Thị Nại. Nhánh phía Nam nhỏ hơn gọi là sông Cầu Đun chảy qua thôn Tú Thủy của xã Phước Hiệp cũ, sau khi qua đập Cây Me thì vào thôn Xuân Phương của xã Tuy Phước Đông (xã Phước Sơn cũ). Sau khi chảy qua cầu Đội Thông một đoạn, dòng sông chảy về hướng Đông Bắc và đưa phù sa phủ lấp hai bên bờ sông. Trên dải đất bồi hai bên bờ sông đã dần dần hình thành cụm dân cư. Cụm dân cư phía tả ngạn dòng sông chính là đội 6 thôn Xuân Phương, tức là địa bàn giáo họ biệt lập Xuân Phong. Có lẽ tên gọi Xuân Phong bắt nguồn từ địa danh thôn Xuân Phương.

Phía Tây và Bắc của đội 6 là cánh đồng Kim Trì, một vựa lúa của xã Phước Hòa cũ. Phía Nam và Đông của đội 6 là dòng sông. Vị trí này đã đem lại cho đội 6 nhiều thuận lợi cho việc trồng trọt và đánh bắt cá. Tuy nhiên trước đây vào mùa mưa, địa bàn này cũng là nơi thường xuyên hứng chịu những cảnh tàn phá của lũ lụt, đường trong xóm bị ngập nước khiến cho việc đi lại khó khăn, đường sá bị sạt lở, gây nguy hiểm cho việc đi lại. Ngày nay nhờ đường sá trong xóm được bê tông hóa nên việc đi lại có phần dễ dàng hơn.

Dân chúng sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng, trồng trọt trong vườn và chăn nuôi nhỏ. Nghề đánh bắt cá trên sông ngày càng mai một vì cá tôm trên sông bị chết do các loại thuốc trừ sâu bệnh theo nước từ cánh đồng chảy ra. Việc tiêu dùng hằng ngày cũng có phần phát triển nhờ địa thế thuận lợi dễ thông thương với những trung tâm mua sắm như Gò Bồi.

II. ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ

Theo địa hình, cụm dân cư Xuân Phong gắn liền với phần đất của giáo họ Gò Thị, vì cả hai được hình thành do hiện tượng sa bồi của dòng sông chảy ở giữa. Vì vậy, trong những giai đoạn đầu của lịch sử, người ta chỉ nhắc đến Gò Thị mà không nói gì đến Xuân Phong. Không biết hạt giống Tin Mừng đã được gieo vào vùng đất này từ lúc nào, nhưng chắc chắn từ khá sớm. Năm 1747, trong bản liệt kê các họ đạo thuộc quyền các thừa sai Pháp người ta thấy có Gò Thị với 60 tín hữu, không thấy có tên Xuân Phong. Trong bản báo cáo năm 1850 của Thánh Giám mục Stêphanô Thể gửi về Tòa Thánh và Hội Thừa Sai Paris, người ta thấy Gò Thị có 750 giáo dân, Gò Dài có 442 giáo dân. Không thấy nói gì về Xuân Phong, có lẽ vì lúc ấy Xuân Phong vẫn còn gắn liền với họ đạo Gò Thị, chưa chính thức thành một họ đạo riêng.

Cuối năm 1877, cha Pierre-Joseph Panis Ngãi đến làm cha sở Gò Thị. Theo lời tường thuật của cha, khi cha đến thì địa sở có 6 họ đạo, sau đó 7 họ đạo khác được tách ra từ địa sở lân cận và sáp nhập vào địa sở của cha, tất cả thành 13 họ đạo, và một cha phó người Việt được sai đến giúp cha. Phân nửa các họ đạo chưa có nhà thờ và nhà vuông. Có lẽ lúc ấy Xuân Phong đã có tên trong danh sách các họ đạo của Gò Thị.

Năm 1885, khi phong trào Văn Thân nổi dậy tàn sát các tín hữu, phần lớn giáo dân di tản về Qui Nhơn để thoát nạn, trừ một số tín hữu ở lại và bị tàn sát. Sau khi cơn bách hại chấm dứt, tháng 7 năm 1887 giáo dân hồi cư và xây dựng lại địa sở. Những họ đạo cũ như Gò Thị, Gò Dài, Xuân Phong, Mỹ Cang, đều tăng số giáo hữu hơn năm 1885. Khi xếp Xuân Phong vào số các họ đạo cũ, tức là Xuân Phong đã có trước đó lâu rồi.

Truyền tụng kể rằng giáo họ Xuân Phong đã có một nhà thờ mái tranh vách đất, không biết được cất từ lúc nào, có lẽ sau khi có họ đạo Xuân Phong. Nhà thờ này do thầy Y, thầy thuốc Bắc, xây dựng. Qua thời gian, nhà thờ này bị xiêu vẹo không còn đứng vững được. Vì vậy, một ngôi nhà thờ mới kiên cố đã được xây dựng, do tiền của và công khó của ông Chánh tổng Đảnh và đồng thời cũng là ông Câu họ Xuân Phong. Trong chính quyền dân sự, ông giữ chức Chánh tổng, tức là người đứng đầu một tổng gồm một số làng xã trong một địa phương. Trong đời sống đạo, ông giữ chức Câu họ, tức là người đứng đầu Ban chức việc của họ đạo.

Ông còn là con cháu của Thánh Trùm Cả Anrê Nguyễn Kim Thông. Theo gia phả, mẹ ông là cháu nội Thánh Anrê Kim Thông, bác ông là cha Phaolô Châu, cháu họ Thánh Anrê Kim Thông, và là Tôi Tớ Chúa tử đạo. Là người vị vọng trong dân, giàu có và có lòng nhiệt thành đối với đạo, ông đã bắt chước ông cố ngoại của mình là Thánh Anrê Kim Thông để đem tiền của ra phục vụ đạo Chúa tại quê hương là họ đạo Xuân Phong.

Ngoài ra, theo người giáo dân Xuân Phong kể lại, thời bấy giờ tại cửa vạn Gò Bồi có nhiều người Hoa sinh sống và làm ăn buôn bán. Lâu lâu họ tổ chức một giải xổ số rất lớn. Năm ấy ông Chánh tổng Đảnh may mắn trúng một con số cử nhân gì đó với số tiền rất lớn, đến độ ông phải cho người ra Gò Bồi gánh bạc về. Người ta còn đồn rằng ông đã tình cờ đào được trong khuôn viên nhà thờ một buồng cau bằng vàng của Hời (tức người Chăm). Ông đã dùng số tiền ấy và tài sản của mình xây nhà thờ Xuân Phong, để giáo dân hằng ngày có nơi đọc kinh cầu nguyện. Thực ra thì lúc ấy đã có nhà thờ Gò Thị không xa lắm, nhưng khó khăn trong việc đi lại hằng ngày, vì phải lội qua sông. Hơn nữa ông muốn làm một ngôi nhà thờ riêng cho họ đạo của mình, điều mà nhiều nơi khác các đại gia cũng sẽ làm, như nhà thờ Vườn Vông, nhà thờ Vĩnh Minh, nhà thờ Bắc Định, v.v.

Theo sổ sách còn lưu lại tại nhà thờ Xuân Phong, nhà thờ được xây dựng năm 1890. Ông Câu Đảnh thuê người san lấp mặt bằng và lên Bình Lâm đào gạch Hời đưa về xây. Theo lịch sử, vùng đất Bình Định ngày nay là của vương quốc Chămpa. Thủ đô là thành Đồ Bàn (gần Đập Đá ngày nay).[2] Người Chăm cũng xây dựng thành Thị Nại (tại thôn Bình Lâm hiện nay) trên bờ Tây đầm Thị Nại, tại hạ nguồn sông Kôn để bảo vệ kinh đô Đồ Bàn. Năm 1471 vua Lê Thánh Tôn đánh bại vua Chăm, phá hủy thành Đồ Bàn và thành Thị Nại.[3] Từ đó thành Thị Nại trở thành một phế tích với rất nhiều gạch Hời, người ta đến lấy mang về xây dựng các công trình tôn giáo và công cộng, chẳng hạn như nhà thờ cũ Gò Thị, nhà thờ và nhà xứ Nam Bình (hiện nay vẫn còn). Riêng ngôi tháp cổ vẫn còn tồn tại mặc dù không nguyên vẹn có lẽ vì người ta sợ đụng chạm đến thần linh.

 Ngôi nhà thờ được xây dựng bằng gạch Hời và vôi với kích thước 21m x 11m theo kiến trúc Tây phương cổ. Mặt tiền quay về phía Tây với 3 ngọn tháp, từ xa nhìn thấy có dáng dấp như ngôi đền Angkor Wat của người Khmer. Bên ngoài lớp vữa được dát những mảnh sứ vỡ lấy từ các chén bát xưa kiểu Trung Quốc. Vì vậy, vào những đêm trăng sáng, hay lúc bình minh và hoàng hôn, những mảnh sứ ấy phản chiếu áng sáng và trở nên óng ánh khiến cho 3 ngọn tháp như một quần thể sao trời nhấp nháy, rất đẹp. Nội thất nhà thờ bằng gỗ quý, chạm trổ tinh vi. Cung thánh được trang trí hoa văn xinh đẹp. Từ đó lịch sử giáo họ Xuân Phong gắn liền với lịch sử giữ gìn và tôn tạo nhà thờ qua dòng thời gian.

Vào thời ông Câu Điểm, tức là vào khoảng những năm 40 của thế kỷ trước, lúc ấy Địa phận Qui Nhơn dưới quyền cai quản của Đức cha Augustinô Tardieu Phú, nhà thờ đã xuống cấp. Năm 1942, trong chuyến viếng thăm mục vụ địa sở Gò Thị, Đức cha Augustinô Tardieu Phú có đến nhà thờ Xuân Phong. Năm ấy họ đạo Xuân Phong có 298 giáo dân. Theo lời kể của ngài, ngôi nhà thờ từ xa trông chưa được rõ lắm, nhưng khi đến gần thì thấy một khối màu đen vì gạch ngói vôi đã rêu phong. Điều ấy chứng tỏ rằng ngôi nhà thờ đã cũ vì được xây dựng lâu lắm rồi.[4] Sau một trận bão lớn các tháp bị hư hoại, thánh giá trên tháp bị gãy, tượng Đức Mẹ trên tháp bị đổ bể. Vì vậy phải đúc thánh giá đưa lên tháp chính và thay tượng Đức Mẹ khác. Tượng này vẫn còn tồn tại cho đến nay. Sau đó xây tường thành trước nhà thờ vào thời cha Tới làm cha sở Gò Thị.

Vào thời ông Câu Sô, tức ông Xã Sô hay Thầy Ba Miễn, vào năm 1963, lúc này Giáo phận Qui Nhơn dưới sự chăm sóc của Đức cha Đaminh Hoàng Văn Đoàn và địa sở Gò Thị dưới sự chăm sóc của cha Mactinô Nguyễn Trọng Huấn, nhà thờ Xuân Phong được đại tu: thay ngói âm dương bằng ngói Hải Phòng, tu sửa các phần tháp bị bể, quét vôi lại toàn bộ nhà thờ, xây tường thành phía Nam. Trong đợt trùng tu này giáo dân đóng góp 2/3 và ông câu Sô đóng 1/3 chi phí.

Đầu năm 1965, vì lý do chiến tranh, toàn thể giáo dân Xuân Phong cùng với giáo dân giáo xứ Gò Thị, các nữ tu Mến Thánh Giá và cha Huấn di tản vào tạm trú tại chủng viện Làng Sông rồi chạy xuống Qui Nhơn. Từ đó cho đến năm 1975, tùy tình hình an ninh, giáo dân Xuân Phong chạy đi chạy về nhiều lần. Sau khi cuộc chiến kết thúc vào năm 1975, giáo dân Xuân Phong hồi cư và bắt đầu xây dựng lại giáo họ và chăm sóc ngôi nhà thờ.

Lúc này ông câu Sô ở lại Qui Nhơn, không trở về quê. Giáo họ được dẫn dắt bởi ông câu Cẩm vài năm rồi đến ông câu Ngợi. Ông câu Ngợi nối tiếp công việc của ông câu Sô cho đến năm 1993. Lúc này Giáo phận Qui Nhơn dưới quyền chăm sóc của Đức cha Phaolô Huỳnh Đông Các, còn giáo xứ Gò Thị dưới sự chăm sóc của cha Phêrô Nguyễn Quang Báu, rồi đến cha Anrê Huỳnh Thanh Khương. Cha Khương cho làm lại bàn thờ và cung thánh, quét vôi lại toàn bộ nhà thờ, xây tường thành phía Bắc và phía Đông, nhờ cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi, cha sở Nam Bình, thiết kế và đứng coi xây hang đá Đức Mẹ.

Sau khi ông câu Ngợi qua đời, giáo họ Xuân Phong không còn ông câu nào nữa. Ông biện Sơn trở thành biện trưởng của giáo họ. Thời ấy cha Phêrô Nguyễn Văn Kính là cha sở Gò Thị. Năm 2002, cha tiến hành trùng tu nhà thờ: cha cho làm đá rửa toàn bộ 3 khối tháp và mặt tiền nhà thờ, nâng cấp cung thánh, ốp gạch men, mở rộng thêm hai cánh gà hai bên cung thánh, thay bàn thờ gỗ bằng bàn thờ đá. Ngoài ra, cha còn xây tháp chuông cao 15m cạnh hang đá Đức Mẹ với một quả chuông có khắc tên 2 người dâng cúng là cha Kính và gia đình bà Thu, giáo dân Xuân Phong. Ngày 03 tháng 02 năm 2003, công trình trùng tu hoàn thành và Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn, giám mục giáo phận đã về dâng lễ tạ ơn trọng thể. Năm 2004 cha Kính xây dựng nhà xứ chỉ gồm 4 vách tường, không ngăn phòng. Sau đó cha cho xây đài Thánh Giuse.

Phần lớn dân cư sinh sống trên địa bàn giáo họ Xuân Phong hiện nay là người công giáo. Họ sống gần gũi với nhau trên một địa bàn tương đối hẹp, từ đó họ dễ xây dựng không những tình làng nghĩa xóm, mà còn tình anh chị em đồng đạo. Trước đây, tại nhà thờ giáo xứ Gò Thị hằng ngày chỉ có thánh lễ sáng vào giờ rất sớm, nhưng nhiều giáo dân Xuân Phong siêng năng đi dự lễ hằng ngày tại nhà thờ Gò Thị. Chiều tối họ tập trung tại nhà thờ Xuân Phong để đọc kinh. Giáo họ Xuân Phong cũng cung cấp cho giáo xứ Gò Thị một đội ngũ chức việc và giáo lý viên nhiệt thành.

Nhận thấy giáo họ Xuân Phong đã phát triển, Đức cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi muốn tách ra làm giáo họ biệt lập để sau này khi có đủ điều kiện thì lên giáo xứ. Đức cha có ý định đưa cha Đaminh Maria Huỳnh Văn Đức về đó, nên đã về nhà thờ Xuân Phong gặp gỡ các chức việc để thảo luận về vấn đề này. Sau đó Đức cha cấp tiền cho cha Đức về nâng cấp nhà xứ để làm nơi ở. Sau khi nhà xứ được trùng tu, ngày 15 tháng 12 năm 2024 Đức cha ký văn thư bổ niệm cha Đức làm cha phó Gò Thị, nhưng biệt cư tại Xuân Phong.

Sau khi chạy vạy tìm nguồn kinh phí từ các ân nhân,  ngày 12 tháng 02 năm 2025, cha Đức khởi công trùng tu ngôi thánh đường: sửa lại gian cung thánh, sơn sửa lại ngai tòa của Ba Đấng, thay toàn bộ các tượng, sơn lại toàn bộ bên trong và bên ngoài nhà thờ, làm lại hệ thống điện chiếu sáng và hệ thống âm thanh. Bên ngoài nhà thờ, cha xây dựng các công trình phụ như: tường thành phía Bắc, nhà vệ sinh công cộng, nâng bằng và đổ bê tông hai sân trước. Sau khi công trình trùng tu hoàn thành, ngày 26 tháng 3 năm 2025 Đức cha Matthêô đã về dâng lễ tạ ơn tại nhà thờ.

Ngày 26 tháng 4 năm 2025,  cha Đức cho dựng thêm 2 gian nhà tiền chế phía sau nhà thờ để làm nơi sinh hoạt cho các hội đoàn. Ngày 25 tháng 7 năm 2025 trùng tu hang đá Đức Mẹ, ngày 30 tháng 7 năm 2025 xây thêm đài Tổng lãnh Thiên Thần Micae ở cổng chính cùng với một số công trình nhỏ khác. Đồng thời với việc trùng tu nhà thờ, cha Đức cũng tranh thủ đi thăm các gia đình giáo dân, thành lập đội ngũ giáo lý viên, lập 2 ca đoàn và 2 đội Legio Mariae.

Ngày 11 tháng 10 năm 2025, Đức cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi ký văn thư thành lập giáo họ biệt lập Xuân Phong tách ra từ giáo xứ Gò Thị và văn thư bổ nhiệm cha Đaminh Maria Huỳnh Văn Đức làm cha quản nhiệm. Sáng ngày 16 tháng 10 năm 2025, Đức cha về nhà thờ Xuân Phong để chủ sự thánh lễ tạ ơn mừng 135 năm xây dựng nhà thờ (1890-2025) và công bố hai văn thư trên. Thánh lễ có sự hiện diện của cha Tổng Đại diện Giuse Trương Đình Hiền, quý cha, quý nữ tu và anh chị em giáo dân trong và ngoài giáo họ.
 

[1] Có lẽ vì chảy sát gò đất có xây tháp Bình Lâm.
[2] Tức là thành Vijaya cũ của vương quốc Chămpa. Sách Thiên Nam dư địa chí gọi là Trà Bàn, sau này nhiều sách chép nhầm là Đồ Bàn, vì từ "trà" và từ "đồ" trong chữ Hán gần giống nhau. Xem PHAN KHOANG, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777. Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam, Chi nhánh Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Tp. Hồ Chí Minh 2016, tr. 223, chú thích 2.
[3] Theo lịch sử, sau khi bị thua Đại Việt, người Chăm dời đô từ Mỹ Sơn (Quảng Nam) vào Bình Định ngày nay. Tại đây, họ xây dựng kinh đô mới là thành Trà Bàn, quen gọi là Đồ Bàn, thuộc thị xã An Nhơn ngày nay. Trước khi xây thành Đồ Bàn làm kinh đô, họ xây thành Thị Nại, tiếng Chăm là Crini-Bany hay Cri-Banoi. Thành được xây dựng giữa hai nhánh sông Kôn và quay mặt ra đầm Thị Nại, như tiền đồn trấn giữ cho kinh đô Đồ Bàn của vương quốc Chămpa. Vết tích còn lại của tường thành phía Bắc là một dải gạch đổ dài trên 200m dọc theo sông Gò Tháp, trên đó còn một đoạn tường khá nguyên vẹn. Tường thành phía Nam chạy dọc theo sông Cầu Đun. Dấu vết còn lại là một dải đất cao có bề mặt rộng tới 15–20m.
[4] Xem MISSION DE QUINHON, Compte-Rendu et Etat de la Mission, de Septembre 1941 à Septembre 1942, Imprimerie de Quinhon, Quinhon 1942, tr. 24.
 

Tác giả: Gm. Matthêô Nguyễn Văn Khôi – Lm. Đaminh M. Huỳnh Văn Đức

 Tags: lược sử

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây