Đức Kitô và những người Pharisiêu
tranh của Ernst Zimmeman
ĐÁNH GIÁ LẠI VAI TRÒ CỦA NGƯỜI PHARISIÊU TRONG TÂN ƯỚC Lm. Dempsey Rosales Acosta, SSL, STD
1. Tiền đề: nhận thức chung về người Pharisiêu
Dường như đã trở thành truyền thống trong các bài đọc Tân Ước là Chúa Giêsu tuyên chiến với những người Pharisiêu và các quan điểm thần học của họ. Ta thường có ấn tượng rằng người Pharisiêu là địch thủ của Chúa vì họ chỉ trích và phản đối những giáo huấn thần học và tinh thần cũng như ngay cả lối sống của Ngài. Chẳng hạn như các tranh cãi về ngày Sabát. Theo quan điểm của mình, người Pharisiêu thấy Chúa Giêsu là hiện thân của một lối sống vô lề luật, không tuân giữ lề luật Torah là biểu hiện ý muốn của Yhwh. Tin mừng Marcô viết: “Vào ngày sabát, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa. Dọc đường, các môn đệ bắt đầu bứt lúa. Người Pharisiêu liền nói với Đức Giêsu: "Ông coi, ngày sabát mà họ làm gì kia? Điều ấy đâu được phép!” (Mc 2,23-24). Vào những dịp khác, người Pharisiêu liên kết với những nhóm khác, như nhóm Sađucêô và phái Hêrôđê, với mục đích bắt quả tang Chúa Giêsu nói hay làm điều gì trái với Lề Luật hòng kết án Ngài, “Họ cử mấy người Pharisiêu và mấy người thuộc phe Hêrôđê đến cùng Người để Người phải lỡ lời mà mắc bẫy” (Mc 12,13).
Tuy nhiên, Chúa Giêsu không ngán quyền bính và địa vị xã hội của người Pharisiêu, ngài công khai đối đầu với họ, vạch ra những thiếu sót về thần học và đạo đức của họ. Tin mừng Matthêô 23,13 khẳng định ý kiến tiêu cực của Chúa Giêsu về người Pharisiêu: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisiêu giả hình! Các người khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào”. Dòng tư tưởng này cũng được nhìn thấy trong lời xác quyết sau đây của Chúa: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisiêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ. Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà.” (Mt 23,23-24).
Những xác quyết thuộc loại này trong các tin mừng đã đưa đến nhận thức chung rằng người Pharisiêu là hiện thân cho đường lối sai lầm về suy nghĩ, cách sống, nhận thức và hiểu biết về Thiên Chúa. Tuy nhiên, điều thật quan trọng là cần phải nhấn mạnh rằng mối tương quan giữa Chúa Giêsu và người Pharisiêu không luôn là sự thù ghét, tranh cãi và đối kháng. Trong bất kỳ lối tiếp cận Kinh Thánh nào, điều chủ yếu là phải tìm ra một cách đọc và hiểu các bản văn Kinh Thánh theo khoa chú giải Công giáo, được hướng dẫn bởi sự kết hợp của Thánh Truyền và Giáo Huấn. Theo đó, mục đích của suy tư Kinh Thánh là tái khám phá những khía cạnh tích cực nơi linh đạo và vai trò người Pharisiêu, bằng cách dùng tài liệu: “The Jewish People and their Sacred Scriptures in the Christian Bible” (Dân Do Thái và Sách Thánh của họ trong Kinh Thánh Kitô giáo), của Ủy Ban Giáo Hoàng về Kinh Thánh (2001), như khuôn mẫu và hướng dẫn chiến lược. Trong khi tài liệu này không nói đặc biệt điều gì về người Pharisiêu, nhưng đây là một suy tư vững chãi có tính hàn lâm về tầm quan trọng của truyền thống Do Thái, ảnh hưởng của nó đối với Kinh Thánh Kitô giáo, và giá trị của đức tin Do Thái giáo, để hiểu về Chúa Giêsu lịch sử và các bản văn Tân Ước.
2. Thay đổi cách hiểu một chiều
Phần hai của tài liệu nói trên cố tìm lại những đóng góp và các chiều kích tích cực của Truyền thống và Sách Thánh Do Thái giáo như là những bậc thang cho suy tư thần học của các bản văn Tân Ước. Tự nguồn cội, Kitô giáo được Chúa Giêsu thiết lập trong dân Do Thái. Chính xác là trong truyền thống và tôn giáo Do Thái là bối cảnh nguyên thủy để triển khai cách hiểu về Thiên Chúa ba ngôi, Đấng đã chọn dân tộc Do Thái để tỏ hiện chính mình cách toàn vẹn trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể. Tuy nhiên, các thủ lãnh Do Thái, những người triệt để chống đối Chúa Giêsu, đã ảnh hưởng lên một số đáng kể người Do Thái, làm cho họ chống lại những cộng đoàn Kitô giáo mới phát sinh, tạo nên những tình trạng căng thẳng mà chúng ta dễ nhìn thấy những dấu vết trong các trình thuật Tin Mừng và sách Tông đồ công vụ.
Đánh giá những khía cạnh tích cực của linh đạo và thần học trong truyền thống Do Thái giáo trong Kinh Thánh cho phép độc giả Công giáo suy nghĩ về vai trò của người Pharisiêu trong các trình thuật Tin Mừng. Đọc kỹ các bài đọc Tin Mừng, xin được đưa ra những ý niệm và thí dụ sau đây để giúp tạo nên một cái khung khách quan về vai trò của người Pharisiêu vào thời Chúa Giêsu.
a) Tương quan giữa người Pharisiêu và Chúa Giêsu không phải luôn đối đầu nhau. Bản văn Luca 13,31 cho thấy có vài người Pharisiêu quan tâm đến sự an mạnh của Chúa Giêsu đến độ họ báo cho ngài cần phải lánh mặt đi vì Hêrôđê đang tìm giết ngài: “Cũng vào giờ ấy, có mấy người Pharisiêu đến thưa Đức Giêsu rằng: "Xin ông đi ra khỏi đây, vì vua Hêrôđê đang muốn giết ông”. Đoạn văn này cho thấy có một nhóm Pharisiêu là những người theo ngài hoặc môn đệ của ngài theo nghĩa rộng. Bản văn vừa nêu trên còn cho thấy một yếu tố quan trọng khác. Những người Pharisiêu hành động như là người bảo vệ và giữ gìn mạng sống cho Chúa Giêsu. Một thái độ như thế trái ngược lại với bức chân dung tổng quát của Luca về người Pharisiêu là những người chống đối các ngôn sứ và Chúa Giêsu (xem Lc 5,17.21.30; 6,2.7; 7,30.36.39; 11,38.39.42.43). Áp dụng nguyên tắc Lectio difficilior potior (ưu tiên cho bản văn khó hơn vì người chép thường có khuynh hướng sửa bản văn cho dễ hiểu), bản văn Lc 13,31 đưa ra một thông tin trái chiều, tách rời khỏi khuôn mẫu hành xử tiêu cực thông thường của người Pharisiêu. Cách hành xử trái nghịch này cho thấy rất có thể đây là một dữ kiện có thật trong lịch sử. Điều này có nghĩa là có một nhóm người Pharisiêu là những người theo Đức Kitô và rất quan tâm đến sự an mạnh của ngài. Theo sự phát triển bình thường của lịch sử soạn thảo một bản văn qua nhiều thế kỷ, loại thông tin này có thể đã dễ dàng hòa nhập với khuôn mẫu tiêu cực có rất nhiều trong trình thuật tin mừng Luca. Tuy nhiên, đặc tính trái ngược của nó đã được lưu tồn như một ngoại lệ lịch sử về một chân dung khác của người Pharisiêu.
b) Nicôđêmô, một người Pharisiêu, đã giữ một vai trò quan trọng trong xã hội Do Thái vào thời ông. Gioan 3,1 đã đánh giá ông là “thủ lãnh của người Do Thái” (archon ton Ioudaion). Trong khi rõ ràng có sự đối chọi nặng nề giữa giới chức Do Thái và Chúa Giêsu vào thời đó, thì đấy cũng chẳng phải là trở ngại để Nicôđêmô tìm cách tiếp cận Chúa Giêsu. Bằng cách đến với Chúa Giêsu ban đêm để không ai nhìn thấy (Ga 3,2), Nicôđêmô có thể là một người theo ngài, nhưng vẫn giữ cái status (địa vị, vai vế) của mình trong cộng đồng Do Thái. Những lời đầu tiên của Nicôđêmô nói trong Gioan 3 như sau: “Thưa Thầy (Rabbi), chúng tôi biết: Thầy là một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến. Quả vậy, chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy” (Ga 3,2). Thật ý nghĩa khi lưu ý rằng Nicôđêmô nói ở số nhiều: “Chúng tôi biết”, từ động từ Hy Lạp là oidamen (οἴδαμεν – ngôi thứ nhất số nhiều), điều này cho thấy rằng có “những người khác” nữa giống như Nicôđêmô tin rằng Chúa Giêsu là đấng từ Yhwh (Giavê) mà đến vì họ nhìn thấy “các dấu hiệu” của ngài như là một xác nhận cho sự can thiệp của Thiên Chúa. Ai là “những người khác” được ẩn tàng trong động từ oidamen? Rất có thể họ là những người Pharisiêu thân cận với Nicôđêmô, nhưng vì áp lực nặng nề của đa số thủ lĩnh Do Thái, nên họ không thể công khai nhìn nhận Chúa Giêsu vì sợ mất đi đặc quyền đặc lợi của mình. Họ là những Kitô hữu ẩn danh (Crypto-Christians), giống như Nicôđêmô, tin rằng Chúa Giêsu là đấng từ Thiên Chúa mà đến, nhưng họ chưa có can đảm tuyên xưng điều đó.
c) Vào nhiều dịp khác, nhiều người Pharisiêu mời Chúa Giêsu đến nhà mình để dùng bữa. Chẳng hạn như trong Luca 7,36: “Có người thuộc nhóm Pharisiêu mời Đức Giêsu dùng bữa với mình. Đức Giêsu đến nhà người Pharisiêu ấy và vào bàn ăn …” và Luca 14,1: “Một ngày sabát kia, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisiêu để dùng bữa”. Lời mời trong cả hai đoạn này rõ ràng không ác ý, và cho thấy người Pharisiêu lấy làm vui để mời một vị Rabbi nổi tiếng, hoặc một học giả, đến nhà của họ. Lời mời đến nhà cho thấy rằng họ không nhìn Chúa Giêsu như một người ô uế hoặc đáng khinh bỉ. Nếu không, một người Pharisiêu rất gắn bó với luật tinh sạch sẽ không bao giờ cho phép Chúa Giêsu vào trong không gian sống riêng tư nhất của mình, nghĩa là nhà của mình, để chia sẻ bữa ăn.
Tuy nhiên, đoạn văn trên mô tả một bối cảnh thuận tiện để Chúa Giêsu trình bày những giải thích cá nhân của ngài, hoặc hướng dẫn của ngài liên quan đến một khía cạnh đặc biệt của lề luật. Chẳng hạn, đoạn Luca 7,36-50, bữa ăn trở thành cái khung cảnh để Chúa Giêsu nói lên một dụ ngôn tập trung vào sự tha thứ của chủ nợ. Sự chú ý của đoạn văn tập trung vào người đàn bà tội lỗi vô danh đã chen ngang bữa tiệc, nhưng là người mà Simon, người Pharisiêu chủ nhà, không hề nghĩ rằng chị ta là một vị khách không mời trong nhà mình. Yếu tố đặc biệt này là bằng chứng cho thấy ý của Simon chỉ là thích thú khi được dùng bữa với một nhân vật đáng kính và hiểu biết, chứ không phải để phê bình Chúa Giêsu hoặc bắt lỗi ngài. Đây là điều mà người kể chuyện đã nói ra trong bản văn: “Thấy điều ấy, ông Pharisiêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng: ‘Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, …’” (Lc 7,39). Vậy thì ý định đầu tiên của người Pharisiêu khi mời Chúa Giêsu chính là vì ngài là một nhân vật đặc biệt, có lẽ là một ngôn sứ vì Yhwh đang hành động qua nhân vật này. Thật ý nghĩa khi nhận thấy người Pharisiêu ngạc nhiên vì Thiên Chúa cho phép một người đàn bà tội lỗi, ở trong tình trạng ô uế, được động chạm tới mình, và một ngôn sứ thì có thể nhìn thấy tận tâm can một con người (cf. Ga 4,19 tt). Điều thú vị trong đoạn này là Chúa Giêsu có thể nhìn và nghe thấy tâm can và tư tưởng không chỉ của người đàn bà nhưng cả người Pharisiêu nữa.
Sau cùng, trong khi đoạn này trình bày thái độ tương phản giữa người đàn bà tội lỗi và người Pharisiêu, thì dụ ngôn (Lc 7,41-42) nhấn mạnh đến sự tha thứ của chủ nợ cho con nợ. Lưu ý rằng đoạn kết không nói Chúa Giêsu kết án ai cả. Vì thế, Lc 7,36-50 trở thành một dịp để huấn giáo mà trong đó Chúa Giêsu dạy dỗ ông Simon người Pharisiêu, theo như tâm hồn của Yhwh Thiên Chúa.
Đoạn thứ hai, Luca 14,1-14.15-23, rất ý nghĩa vì người Pharisiêu vô danh được đánh giá là “một trong những nhân vật hàng đầu của Pharisiêu” (tinos ton archónton ton pharisaíon: Lk 14,1), một chỉ dẫn quan trọng về người chủ nhà này trong số lãnh đạo Do Thái. Tại sao những người sáng giá trong số người Pharisiêu mời Chúa Giêsu đến nhà dùng bữa? Để tranh cãi công khai với ngài sao? Nên nhớ rằng người Pharisiêu có thể công khai miệt thị ngài bên ngoài nhà riêng của mình. Vì thế, lời mời không bao hàm một kế hoạch tinh ranh để gây chiến luận với ngài trong bữa tiệc. Điều đáng ngạc nhiên trong đoạn này là chính Chúa Giêsu bắt đầu chất vấn bằng cách đưa ra một trường hợp liên quan đến Lề Luật về ngày Sabát, dù cho có nhiều vị khách khác nhau ở đó đang chăm chú nhìn Ngài.
Trình thuật tiếp tục bằng cách trình bày một luận chứng không xuất phát từ phía những người Pharisiêu. Trái lại, chính Chúa Giêsu là người đưa ra một vài tình huống có thể được phép làm trong ngày Sabát trích từ Lề Luật, với động lực là cứu giúp người đàn ông bị phù thủng, để đưa ra một vài hướng dẫn thực tiễn và khôn ngoan (Lc 14,3.5). Các vị khách thinh lặng về các trường hợp được trình bày (Lc 14,4.6). Các độc giả giải thích về sự thinh lặng này như thế nào? Sự thinh lặng này là một cách đồng ý tế nhị, hoặc là sự tôn trọng quan điểm của Chúa Giêsu. Nói cách khác, không ai dám tỏ ra mình khôn ngoan hơn Chúa Giêsu. Sau đó, Luca 14,15 cho thấy một trong những người ngồi đồng bàn với Chúa Giêsu – có thể là một người Pharisiêu khác – sau khi nghe giáo huấn của ngài, đã chúc phúc cho những ai sẽ được dự tiệc Nước Trời, câu nói giới thiệu cho dụ ngôn về bữa đại tiệc (Lc 14,16-23).
d) Đoạn Marcô 12,28-34 trình bày một kinh sư (grammateús), một nghề nổi trội trong nhóm người Pharisiêu, đến nghe Chúa Giêsu tranh luận vài vấn đề trong thần học Do Thái. Bản văn nói: “Có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giêsu và những người thuộc nhóm Xađốc tranh luận với nhau. Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi” (Mc 12,28). Người kinh sư ấn tượng với những câu trả lời của Chúa Giêsu trong cuộc tranh luận. Thái độ tích cực của người kinh sư đã khiến ông tìm kiếm sự thiện hảo và kiến thức của Chúa Giêsu. Vì thế, ông đặt câu hỏi với Chúa theo thói quen của giới rabbi. Đoạn văn này không mô tả một cuộc chạm trán đầy ác ý hay ý muốn tạo nên một cuộc tranh luận thần học với Chúa Giêsu. Trái lại, người kinh sư hiện thân cho thái độ của một Talmid Chacham, một người học trò khôn ngoan luôn mở rộng lòng mình ra để thu thập kiến thức. Cuộc chuyện trò theo kiểu các rabbi trong các câu 29-33 cố gắng làm sáng tỏ các mitzvoth (các giới răn). Trong giới rabbi, có một câu hỏi hàm ẩn nhiều câu trả lời tùy vào quan điểm của người rabbi. Trong truyền thống Do Thái, có 613 mitzvoth, hoặc các giới răn. Một con số rất lớn nói lên sự tỉ mỉ và nghiêm túc của linh đạo Do Thái giáo không xem bất cứ điều gì trong Torah (Lề Luật) là hời hợt nhưng điều này đồng thời cũng tiềm ẩn một hệ thống duy lề luật, phức tạp, khó mà tóm tắt hay đơn giản hóa những khía cạnh tinh tế của ý muốn Yhwh biểu lộ trong Torah của ngài. Như vậy, câu hỏi “Trong mọi giới răn, giới răn nào trọng nhất?” giả thiết rằng Chúa Giêsu được nhìn nhận như là một học giả Do Thái giáo am tường Torah và được người grammateús (kinh sư) này kính nể. Chúa Giêsu trả lời với thẩm quyền và sự chính xác khi trích dẫn các bản văn quan trọng nhất của Torah là Shemah Israel (Đnl 6,4-5) kết hợp với quy luật vàng của Lv 19,18. Người kinh sư hoàn toàn đồng ý và đồng cảm với câu trả lời của Chúa Giêsu trong ý niệm thần học về đức tin rất quan trọng này. Thái độ của người Pharisiêu, người kinh sư đã khiến Chúa Giêsu đánh giá tích cực và ngợi khen: “Đức Giêsu thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu” (Mc 12,34).
3. Gamaliel và sứ mệnh của các tông đồ
Gamaliel, người đứng đầu trường phái Hillel của các rabbi vào thời Chúa Giêsu, rất nổi tiếng trong Truyền thống Kitô giáo qua đoạn Cv 5,33-40. Tuy nhiên, Gamaliel Trưởng lão, đã không thường xuyên được trích dẫn trong các văn bản Mishnah sơ thời thuộc nền văn chương rabbi mặc dù có câu nói về ông rằng: “Khi ông (Gamaliel) chết đi thì vinh quang Torah đã chấm dứt” (Mishnah Soṭa 9.15).
Tác giả Cv 5,33-40 nói Gamaliel là một thành viên của Hội đồng Sanhedrin, một người Pharisiêu. Tuy nhiên, bản văn không đưa ra những thông tin nào giúp ta hiểu tại sao các thành viên khác của Hội đồng Sanhedrin lắng nghe và tuân theo lời khuyên của Gamaliel trong những vấn đề quan trọng như thế này vốn được xem như là chối đạo và lạc giáo, đây là điều mà người ta cáo buộc các tông đồ vì đã tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế chịu đóng đinh, đấng đã sống lại và được Thiên Chúa siêu tôn (Cv 5,30-31).
Truyền thống Do Thái tannaitic (các nhà hiền triết Do Thái từ thời Hillel cho đến khi sưu tập sách Mishna) nói rằng Gamaliel là con của Rabbi Simon, và là cháu nội của Rabbi Hillel, người sáng lập trường phái thời danh mang cùng tên Hillel (Shab. 15). Gamaliel kế vị như là thủ lãnh của trường phái Hillel, và trở thành chủ tịch đầu tiên của Hội đồng Sanhedrin ở Giêrusalem, rất được tôn trọng trong cả pháp đình Giêrusalem lẫn truyền thống Do Thái. Là chủ tịch tòa tối cao của người Do Thái, ông có mối liên lạc mật thiết không chỉ với người Do Thái ở Israel, nhưng còn với những người kiều dân Do Thái diaspora (Tosefta Sanhedrin 2:6; TJ Sanhedrin 1:2, 18d; Sanhedrin 11b). Vì sự thông thái, sự chính trực và đời sống đạo đức, ông được gán cho tước vị “ha Zaken,” Trưởng lão. Nối gót ông nội, Gamaliel là kiến trúc sư của các quy định thần học khác nhau trong Do Thái giáo, và các suy tư thần học được gọi là: takkanot. Nhiều quy định mang công thức “tiḳḳum ha-҆olam” hoặc “vì lợi ích của nhân loại” (Git 4:2-3) đưa ra vài ý niệm để điều hành xã hội tốt hơn.
Những thông tin về Do Thái giáo vừa nêu trên được xem như là dữ liệu ngoại Kinh Thánh giúp độc giả Kitô giáo hiểu được bối cảnh lịch sử của đoạn Cv 5,33-40. Trước hết, Gamaliel không chỉ là người Pharisiêu mà còn là một Ha Zachen, Trưởng lão, là một trong những học giả và thần học gia hàng đầu vào thời đó, là người đứng đầu (nasi) của Hội đồng Sanhedrin. Hoàn toàn có thể hiểu được khi thấy Hội đồng Sanhedrin sẵn lòng lắng nghe Gamaliel khi ông yêu cầu được nói với cử tọa. Bản văn Cv nói rõ ràng rằng ông “được toàn dân kính trọng” (Cv 5,34).
Diễn từ của Gamaliel là lời khuyên và cố vấn về luật pháp cho các thành viên khác của tòa án Do Thái, là diễn từ đầu tiên của một người ngoài Kitô hữu trong sách Công Vụ. Nội dung diễn từ của Gamaliel gây ấn tượng vì cách tiếp cận vấn đề các tông đồ thật thâm sâu về thần học lẫn thiêng liêng trong khi các tông đồ sắp bị kết án vì họ tuyên bố Chúa Giêsu là con Thiên Chúa hằng sống. Hội đồng Sanhedrin muốn kết án tử các tông đồ (Cv 5,33) sau khi họ từ chối chấp nhận và tuân hành mệnh lệnh của vị thượng tế, người nghiêm cấm họ không được giảng dạy nhân danh Giêsu (Cv 5,28). Giữa bối cảnh để bảo vệ cách ghen tức một chủ thuyết Yahweh thuần khiết (Yahwism), Gamaliel là tiếng nói khác với các suy nghĩ hiện hành trong Hội đồng Sanhedrin.
Gamaliel bắt đầu lời kêu gọi bằng cách xin các người anh em Do Thái của mình xét lại cẩn thận những gì họ định làm, vì điều chính yếu là phải phân biệt trước hết đây có phải là điều do bàn tay Thiên Chúa thực hiện qua những người này không. Thật là bất thường khi thấy thái độ thần học và đạo đức này nơi một người Pharisiêu, một người thật sự yêu mến Thiên Chúa, và vì tình yêu này, ông đã có được khả năng phân biện ngay lúc hiểm nguy để nói lên điều đúng đắn phải làm, dù điều ấy nghịch với suy nghĩ của đa số. Đáng lưu ý là Gamaliel không phải là kitô hữu nên lời kêu gọi của ông không thiên vị. Mối bận tâm lớn lao hơn của ông là Đức Yhwh, và nỗi sợ lớn nhất của ông là chống lại Thiên Chúa (Cv 5,39). Tiêu chuẩn biện phân chính yếu của Gamaliel là hành động theo ý Thiên Chúa, bằng cách để mình là dụng cụ cho hành động của Ngài chứ không phải là vật cản cho sự can thiệp của Thiên Chúa qua các hoàn cảnh của con người. Thái độ này phác họa nên thái độ xuất phát từ một lương tâm tôn giáo được huấn luyện bài bản của một người Pharisiêu.
Theo dòng suy nghĩ này, Gamaliel đưa ra “chứng cứ lịch sử” như là tiêu chuẩn khác của tiến trình biện phân. Như một bằng chứng lịch sử, Gamaliel nói đến trường hợp ông Theudas (Cv 5,36), và Judas người Galilê (Cv 5,37), hai thủ lĩnh uy tín mang những đặc tính cứu thế, được rất đông người theo. Việc nhắc lại những biến cố quá khứ này đã chứng thực rằng cả hai trường hợp này đều kết thúc bằng cái chết của người lãnh đạo và sự phân tán của những người tin theo, bởi vì những phong trào này không xuất phát từ Thiên Chúa. Nguồn gốc con người của những phong trào này đã quyết định sự thất bại và tan rã vì chúng có nguồn gốc và bản tính hư nát (Cv 5,38). “Chứng cứ lịch sử” đã chứng minh cho quan điểm này, và tính vững chắc của sự biện phân nơi Gamaliel đã trở thành dụng cụ mà Thiên Chúa dùng để soi sáng cho các thành viên của hội đồng Sanhedrin. Lời yêu cầu trả tự do cho các tông đồ dựa trên ý niệm yêu thương, và lòng kính sợ Yhwh, đã dẫn đưa ông nhìn xa hơn các hoàn cảnh thuần túy nhân loại, để nhận ra Thiên Chúa hành động như thế nào sau bức màn nhân loại. Tiêu chuẩn biện phân này dựa trên tinh thần Ngũ Kinh trong sách Đnl 18,20-22. Yhwh khẳng định rằng nếu ai nghi ngờ điều gì về một ngôn sứ thật thì phải chờ xem lời ông ấy nói có trở thành sự thật hay không đã.
Phản ứng và lời kêu gọi của Gamaliel đối với các tông đồ đã củng cố thêm cho điều được kể trong Cv 5,18-19, khi các tông đồ bị tống ngục và được thả tự do trong đêm nhờ sự can thiệp của thiên thần. Những lời của Gamaliel là giải thích thần học cho những gì đã xảy ra nhưng không ai trong Hội đồng Sanhedrin biết được điều đó. Chỉ có Gamaliel là có thể nhận ra “khả năng” đây là sự can thiệp của Thiên Chúa. Nếu “khả năng” ấy không có thì Gamaliel sẽ không bận tâm gì về nó nữa vì một phong trào xuất phát từ con người sẽ đi đến chỗ thất bại thôi.
Hội đồng Sanhedrin chấp nhận lời khuyên của Gamaliel nhưng với một mức độ dè dặt nào đó được thể hiện qua hình phạt đánh đòn (40 roi bớt 1), và cấm không cho nói đến danh Đức Giêsu (Cv 5,40).
Thái độ của Gamaliel rất hữu ích trong tiến trình biện phân của đời sống kitô hữu, nhất là các ý niệm sau đây: a) đừng vội hành động theo cảm tính nhất thời; b) hãy suy nghĩ xem đó có phải là bàn tay Thiên Chúa hành động trong điều kiện hay hoàn cảnh nhân loại đặc thù; c) xét lại “chứng cứ lịch sử” để xác định đó là hành vi của Thiên Chúa hay của con người; và d) hãy hành động dù cho có phải chống lại trào lưu hay tiếng nói của nhiều người khác, để tránh chống lại Thiên Chúa.
4. Kết
Bài viết tập trung đánh giá lại sự hiểu biết và vai trò của người Pharisiêu, linh đạo và các quan niệm thần học của họ. Như đã nói, nhận thức tiêu cực về họ đã trở nên phổ biến nơi người kitô hữu hiện đại, và thật quan trọng khi đánh giá mặt tích cực của truyền thống phong phú này mà Thánh Phaolô đã được giáo dục trong đó, và qua đó ngài lớn lên trong tình yêu và lòng đạo đức đối với Thiên Chúa.
Những đoạn Tân Ước phác họa hình ảnh tiêu cực về người Pharisiêu, hoặc người Do Thái, phải được hiểu và nghiên cứu dưới lăng kính của bối cảnh lịch sử riêng. Việc phân tích phần Kinh Thánh đặc biệt này cũng bao hàm cả việc hiểu biết Do Thái giáo như là một phong trào phức tạp và đa dạng. Thật sai lầm khi khái quát hóa đến độ quên đi những đoạn tuyệt hay như vừa nêu trên.
Huấn quyền Giáo Hội khẳng định rằng toàn bộ Kinh Thánh được linh hứng, và Cựu Ước tiên báo và nói về biến cố Đức Kitô. Khi nghiên cứu thần học, linh đạo, các chủ đề lớn trong Cựu Ước, ta có thể hiểu được linh đạo của Chúa Giêsu cũng như nền tảng thần học của hầu hết các tác giả Tân Ước. Chẳng hạn, những yếu tố quan trọng trong linh đạo và niềm tin của Chúa Giêsu giống với linh đạo của người Pharisiêu. Trong số đó, có thể nói về niềm tin của họ vào sự phục sinh thân xác, thực hành lòng thương xót và bố thí, ăn chay, hãm mình (Mt 6,1-18).
Thánh Phaolô không hổ thẹn khi nói rằng mình là người Do Thái trước khi là người Pharisiêu (Pl 3,5; Cv 23,6). Đàng khác, các thư của ngài là những bằng chứng mà trong đó ta có thể tìm thấy cách chú giải rabbi của người Do Thái, cách áp dụng việc giải thích Kinh Thánh Cựu Ước, bảy quy luật chú giải (middot) của trường phái Hillel và phương pháp Pesher cũng xuất hiện trong các bản cuộn Biển Chết (Dead Sea Scrolls).
Sự kế tục của lịch sử cứu rỗi thông qua suốt hai giao ước, độc giả Công giáo có thể nhận thấy sự cộng sinh của hai phần Kinh Thánh (Cựu ước và Tân Ước), và sự nối kết chặt chẽ giữa giáo hội của Đức Kitô với người dân Do Thái. Đây là lý luận được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II diễn tả trong chuyến viếng thăm Hội đường Mainz (1980). Ngài nói:
Sự gặp gỡ giữa dân Chúa của Giao ước cũ mà Thiên Chúa không bao giờ hủy bỏ (cf. Rm 11,29) và dân của Giao ước mới, cũng là cuộc đối thoại nội bộ của Giáo hội chúng ta, cũng giống như cuộc đối thoại giữa phần thứ nhất và phần thứ hai của Kinh Thánh.
Theo dòng suy nghĩ này, thật quan trọng để suy tư và nghiên cứu các giá trị chính yếu của Do Thái Giáo để có cái nhìn về linh đạo của Thiên Chúa, não trạng của các tác giả Tân Ước, như vậy mới có thể đánh giá đúng mầu nhiệm mạc khải được biểu lộ qua dân tộc Do Thái. Ta có thể kết luận với những lời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói với cộng đồng Do Thái ở Roma:
Giáo hội Đức Kitô khám phá “đường dẫn” của mình nối với Do Thái Thái Giáo bằng cách suy tư mầu nhiệm của chính mình. Do Thái Giáo không ngoại tại mà một cách nào đó nội tại trong tôn giáo của chúng tôi. Vì thế, chúng tôi có một mối liên hệ với Do Thái Giáo hơn bất kỳ tôn giáo nào khác. Các bạn là những người anh em của chúng tôi và theo một nghĩ nào đó, các bạn là anh của chúng tôi.
Mc 11,27-28: “Đức Giêsu và các môn đệ lại vào Giêrusalem. Người đang đi trong Đền Thờ, thì các thượng tế, kinh sư và kỳ mục đến cùng Người và hỏi: "Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy, hay ai đã cho ông quyền làm các điều ấy?” Những đoạn khác cùng ý tưởng: Mt 5,20; 15,3-6; 16,11-12; 23,2-9. Ủy Ban Giáo Hoàng về Kinh Thánh, The Jewish People and Their Sacred Scriptures in the Christian Bible, số 70: “Các Tin Mừng và Tông đồ công vụ có cái nhìn tích cực về dân Do Thái vì nhận thấy rằng dân Do Thái là dân Chúa chọn để thực hiện chương trình cứu rỗi của Ngài. Sự chọn lựa này của Thiên Chúa đã tìm thấy sự khẳng định cao nhất nơi con người của Đức Giêsu, con của một người mẹ Do Thái, được sinh ra để làm Đấng Cứu Thế của dân tộc mình, người hoàn thành sứ mệnh bằng cách rao giảng Tin Mừng cho dân tộc mình, thực hiện những cuộc chữa lành và giải thoát mà đỉnh điểm là cuộc khổ nạn và phục sinh. Sự gắn bó của một số đông người Do Thái với Đức Giêsu, trong suốt đời sống công khai của Ngài và sau khi phục sinh, đã xác nhận cho nhãn quan này, cũng như việc Ngài chọn 12 người Do Thái để chia sẻ sứ mệnh và tiếp tục công việc của Ngài. Tin Mừng ban đầu được nhiều người Do Thái thật tâm chấp nhận, đã gặp phải chống đối từ phía các nhà lãnh đạo mà chính họ cũng được một phần lớn dân chúng tuân theo. Kết quả là giữa các cộng đồng Do Thái và Kitô giáo đã nổi lên xung đột và rõ ràng đã để lại dấu vết trên việc soạn thảo các Tin Mừng và sách Tông đồ công vụ” Cf. Raymond Brown, “Other Sheep Not of This Fold: The Johannine Perspective on Christian Diversity in the Late First Century,” JBL 97, no. 1 (1978): 9.11-12. Cf. Luke Timothy Johnson, The Gospel of Luke (Collegeville, Minnesota, Liturgical Press, 1991), 127. Johnson xem đoạn này như là sự xung đột mà trong đó Chúa Giêsu là người tấn công nhóm Pharisiêu. Cf. Johnson, Gospel of Luke, 225-226. Cf. Klemens Stock, Marco. Commento contestuale al second Vangelo (Roma: edizioni ADP, 2013), 253-254. Ủy Ban Giáo Hoàng về Kinh Thánh, The Jewish People and their sacred Scriptures in the Christian Bible, n. 75: “Dĩ nhiên, lời rao giảng Kitô giáo đã nhanh chóng khuấy lên sự chống đối nơi các giới chức Do Thái. Người Sađucêô chống đối các tông đồ vì “dựa vào trường hợp Đức Giêsu mà loan báo kẻ chết sẽ sống lại” (Cv 4,2) mà họ thì không tin điều đó (Lc 20,27). Nhưng một người Pharisiêu rất có ảnh hưởng là Gamaliel đã đứng về phía các tông đồ khi nghĩ rằng công việc của họ có thể “xuất phát từ Thiên Chúa” (Cv 5,39).” Cf. Andrew Overman, “Gamaliel,” in Oxford Companion to the Bible. Edited by Bruce M. Metzger and Michael D. Coogan (Oxford – New York – Toronto: Oxford University Press, 1993), 242. Cf. Cecil Roth, “Rabban Gamaliel,” trong Encyclopaedia Judaica, vol. VII (Jerusalem-New York-Detroit: Thomson – Gale, 2007), 364-365. Chẳng hạn trong sách Babylonian Talmud, Tractate Gittin tức là chuyên luận về các vấn đề ly dị, trong tập 32a, Chương IV nói rằng: “Nếu người đàn ông đã phát đi tờ ly dị cho vợ mình, nhưng sau đó ông gặp người đưa đơn, hay sai một sứ giả đến với người đưa đơn và nói với ông ấy rằng tờ ly dị mà tôi trao cho ông đã bị hủy, thì nó bị hủy bỏ. Nếu người chồng đến gặp vợ trước (người đưa đơn) hoặc gởi sứ giả đến và nói với cô rằng tờ đơn trao cho cô bị hủy bỏ thì nó bị hủy bỏ. Tuy nhiên, một khi tờ tờ đã đến tay người vợ, thì người ông không thể hủy nó. Vào thời trước, người đàn ông được phép ra pháp đình nơi mình cư trú và hủy tờ ly dị. Tuy nhiên, Gamaliel Trưởng lão đã cấm luật này, để phòng sự lạm dụng.” Tractate Gittin, Maurice Simon dịch và Rabbi Isidore Epstein biên tập (London – New York: Soncino Press, 1963) Nhân vật này được Phaolô kính trọng như là một Rabbi đáng kính, một học giả về lề luật, một lãnh tụ tinh thần. Phaolô hãnh diện khi nói rằng mình được giáo dục dưới chân thầy Gamaliel khi nói trước đám đông người Do Thái tại Giêrusalem: “Tôi là người Do Thái, sinh ở Tácxô miền Kilikia, nhưng tôi đã được nuôi dưỡng tại thành này; dưới chân ông Gamaliel, tôi đã được giáo dục để giữ Luật cha ông một cách nghiêm ngặt.” (Cv 22,3). Điều này có nghĩa là Phaolô trình bày trước các đồng bào một giấy chứng nhận kiến thức của mình về các vấn đề Lề Luật Do Thái giáo, Thần học, và linh đạo, chứng tỏ rằng mình có một truyền thống Do Thái giáo vững chắc chứ không lơ mơ. Việc nói lấy lòng này (captatio benevolentiae) đã khiến cho thính giả lắng nghe lời biện hộ vì sao ngài tin vào Đức Kitô bằng cách kể ra câu chuyện gặp gỡ của ngài với Chúa phục sinh trên đường Đamát (Cv 22,4-21). Cf. Joseph Fitzmyer SJ., The Acts of the Apostles. A new translation with introduction and commentary (The Anchor Bible. New York-London-Toronto: Doubleday, 1998), 333. Luke Timothy Johnson cho rằng sẽ là một sai lầm khi giải thích bài diễn văn nhẹ nhàng của Gamaliel như là một bằng chứng về nhãn quan tích cực của Luca về những người Pharisiêu. Johnson tái khẳng định bức chân dung tiêu cực về người Pharisiêu nơi tác giả Luca của sách Tông đồ công vụ. Cf. Luke Timothy Johnson, The Acts of the Apostles (Collegeville, Minnesota: Liturgical Press, 1992), 102. Thật thú vị khi xem Joseph Fitzmyer phân loại bài diễn văn của Gamaliel. Ông phân ra làm ba phần: a) lời cảnh báo khôn ngoan (5,35b), b) Các gương mẫu trong lịch sử về những lãnh tụ khác (5,36-37), và c) kết luận (5,38-39). Cf. Joseph Fitzmyer SJ., The Acts of the Apostles, 333. Theudas là một lãnh tụ hứa với đám đông là sẽ làm phép lạ theo kiểu ông Môisê. Chẳng hạn ông hứa rẽ nước sông Giođan thành hai để những người theo ông đi qua mà vẫn ráo chân. Cf. Johannes Munck, The Acts of the Apostles. Introduction, translation and notes (Anchor Bible Series. Garden City, NY: Doubleday & Company, 1967), 48; Joseph Fitzmyer SJ., The Acts of the Apostles, 339-340. Judas, người Galilê, có lẽ là thủ lãnh của phái Nhiệt thành (Zealots). Theo sử gia Flavius Josephus, ông hoạt động mạnh mẽ trong thời thu thuế và kiểm tra dân số dưới thời Quirinius vào năm 6 AD. Cf. Flavius Josephus, Jewish War II, 8.1; Johannes Munck, The Acts of the Apostles, 48; Joseph Fitzmyer SJ., The Acts of the Apostles, 340. Cf. Joseph Fitzmyer SJ., The Acts of the Apostles, 341 Cf. Robert C. Tannehill, The Narrative Unity of Luke-Acts. A Literary Interpretation. Volume II: the Acts of the Apostle (Minneapolis: Fortress Press, 1994), 66 Tập quán của thời đó là đánh 40 roi bớt 1. Thực hành này được xác nhận trong 2 Cr 11, 24 Xem giải thích thành ngữ “dân Do Thái” theo Tin Mừng Gioan trong tài liệu của Ủy Ban Giáo Hoàng về Kinh Thánh, The Jewish People and their sacred Scriptures in the Christian Bible, nn. 76-78 Bảy quy luật chú giải là: 1. Kal Vahomer (Nặng và nhẹ), 2. G’zerah Shavah (sự tương đương của các lối diễn tả), 3. Binyan ab mikathub echad (Lập “một gia đình” từ một bản văn), 4. Binyab ab mishene kethubim (Lập “một gia đình” từ hai hoặc nhiều bản văn), 5. Kelal uferat (Tổng quát và đặc thù), 6. Kayotze bo mimekom akhar (Loại suy từ một đoạn văn khác), và 7. Davar hilmad me’anino (Giải thích từ bối cảnh). Cf. Pasquale Basta, “Paul and Gezerah Shewah: the Judaic method in the service of justification by faith,” trong Paul’s Jewish Matrix, Thomas Casey và Justin Taylor biên tập (Rome: Gregorian Biblical Press, 2011), 125-126; PBC, The Jewish People and Their Sacred Scriptures in the Christian Bible, nn. 12.14 Cf. Ủy Ban Giáo Hoàng về Kinh Thánh, The Jewish People and Their Sacred Scriptures in the Christian Bible, n. 13 Ủy Ban Giáo Hoàng về Kinh Thánh, The Jewish People and Their Sacred Scriptures in the Christian Bible, n. 86. Documentation Catholique 77 (1980) 1148 Diễn từ của Đức giáo hoàng nói với cộng đồng Do Thái ở Ý trong chuyến viếng thăm Hộ đường Roma (1986). Ủy Ban Giáo Hoàng về Kinh Thánh, The Jewish People and Their Sacred Scriptures in the Christian Bible, n. 86. Documentation Catholique 83 (1986) 437
(nguồn: hprweb.com)