Nếu ai đó đặt niềm tin của mình vào khoa học, vậy thì chí ít, họ cũng phải chấp nhận chuyện có một phép lạ. Phép lạ ấy là khoảnh khắc mà mọi sự khởi đầu. Theo hiểu biết vũ trụ học hiện nay, toàn thể vũ trụ - không gian, thời gian, vật chất và năng lượng – phát sinh từ một điểm kỳ dị cách đây khoảng chừng 13,8 tỷ năm. Điều đó diễn ra mà không có một nguyên nhân vật lý, một sự kiện đi trước và một cơ chế tự nhiên nào cả. Mọi thứ nảy sinh từ điều xem ra là hư vô.
Điều này không hề là một phát biểu thần học. Nhưng đó là mô hình chuẩn của ngành vật lý. Khoảnh khắc mà chúng ta gọi là vụ nổ lớn (big bang) đánh dấu một ranh giới. Các quy luật tự nhiên, bao gồm thời gian, không gian, vật chất và quan hệ nhân quả, chỉ bắt đầu từ khoảnh khắc ấy. Không có cái gọi là “trước đó”, bởi trước đó chẳng có thời gian. Vấn đề nguyên nhân gây ra vụ nổ lớn không đơn thuần là một câu hỏi chưa được giải đáp. Bởi, một cách căn bản, nó không thể được giải đáp. Bất kỳ nguyên nhân nào [gây ra big bang] cũng phải hoạt động bên ngoài vũ trụ vật lý của chúng ta, ngoài không-thời gian, và có thể nằm dưới các quy luật và nguyên lý hoàn toàn khác với những gì chúng ta biết. Như thế, nguồn gốc vạn vật không những nằm ngoài các công cụ đo lường mà còn cả nhận thức của chúng ta nữa. Không chỉ là chuyện về công nghệ, các giới hạn ấy mang tính cấu trúc. Xét về bản chất khái niệm, điều nằm phía trước khoảnh khắc đầu tiên sẽ mãi mãi nằm ngoài tầm hiểu biết của nhân loại.
Mầu nhiệm căn bản này thường bị xem nhẹ. Càng hiểu biết về vũ trụ bao nhiêu, chúng ta càng kinh ngạc trước sự kỳ vĩ và tinh tế, đặc biệt là sự tồn tại xem ra bất khả của nó. Tiến bộ khoa học không xóa bỏ sự ngạc nhiên. Nó càng làm cho sự ngạc nhiên nên sâu sắc hơn.
Vũ trụ vận động tuân theo một tập hợp các hằng số vật lý – các đại lượng có thể đo đạc, giúp xác định cường độ các lực, hành vi các hạt và sự giãn nở của không gian. Những hằng số này không được tính toán ra bởi lý thuyết. Chúng là các giá trị không thể được suy ra, nhưng được khám phá nhờ quan sát, và độ chính xác của chúng thật đáng kinh ngạc. Hãy xem xét hằng số vũ trụ. Giá trị này định đoạt tốc độ vũ trụ giãn nở. Nếu tốc độ ấy lớn hơn dù chỉ 1/(10^120), sự giãn nở sẽ trở nên quá nhanh để các thiên hà, ngôi sao và hành tinh có thể hình thành. Mức độ chính xác cực kỳ này quả là khó để diễn giải bằng các thuật ngữ thông thường. Một con số 1 cùng với một trăm hai mươi số 0 theo sau vượt quá tổng số hạt nguyên tử của vũ trụ quan sát được.
Lực hạt nhân mạnh, loại lực liên kết các proton và neutron với nhau bên trong hạt nhân nguyên tử, cũng được tinh chỉnh cách tương tự. Nếu lực này chỉ cần mạnh hơn 2%, phản ứng tổng hợp hạt nhân hydro bên trong các ngôi sao sẽ bị gián đoạn, quá trình này chỉ tạo ra các nguyên tố nặng hơn. Khi đó, về mặt hóa học, sự sống như chúng ta biết sẽ không thể xuất hiện. Còn nếu lực này yếu hơn khoảng 5%, phản ứng tổng hợp hạt nhân của hydro hoàn toàn không thể xảy ra, và các ngôi sao sẽ không bao giờ bừng cháy. Sẽ không có ánh sáng, không có sức nóng và không có bất kỳ một vật chất phức hợp nào.
Tỷ lệ giữa lực điện từ và lực hấp dẫn cũng phải rơi vào trong một khoảng cực kỳ hẹp. Nếu tỷ lệ ấy khác đi dù chỉ 1/(10^40), vật chất không thể tích tụ lại thành những cấu trúc bền vững. Các hành tinh không thể hình thành. Phản ứng hóa học cũng sẽ không diễn ra theo cách mà chúng ta đang xem thấy. Những giá trị này không nằm ở mức gần đúng, nhưng chúng chính xác ở mức độ cực nhỏ với rất nhiều chữ số thập phân. Xác suất để tất cả chúng được đặt để cách ngẫu nhiên hầu như bằng không.
Roger Penrose, nhà vật lý học từng đoạt giải Nobel, đã tính toán ra tỷ lệ để vũ trụ sơ khai có thể sở hữu các điều kiện cần thiết cho sự sống là 1/(10^(10^123)). Con số này lớn đến mức không một trí tưởng tượng nào nắm bắt được quy mô của nó. Đơn giản mà nói, nó nằm ngoài khả năng nghĩ tưởng của chúng ta.
Chúng ta vẫn tồn tại, dẫu điều đó gần như bất khả.
Để né tránh những hệ quả về mặt triết học của tính bất khả này, nhiều nhà vật lý đề xuất sự hiện hữu của đa vũ trụ. Theo quan điểm này, vũ trụ của chúng ta chỉ là một trong số vô vàn các vũ trụ, mà mỗi vũ trụ có những quy luật vật lý khác nhau. Với giả thuyết ấy, không có gì ngạc nhiên về chuyện một vũ trụ nào đó tình cờ có điều kiện phù hợp cho sự sống. Chúng ta chỉ đơn thuần ở trong một vũ trụ mà điều đó xảy ra.
Tuy nhiên, đa vũ trụ không phải là một thuyết có thể kiểm nghiệm. Các vũ trụ khác, nếu chúng tồn tại, nằm ngoài khả năng quan sát. Không hề có một phép thực nghiệm khả dĩ nào để xác nhận hay bác bỏ sự tồn tại của chúng. Như thế, đa vũ trụ không thể được xem như một kết luận khoa học, nhưng là một giả định mang tính lý thuyết, được đưa ra để bảo vệ cho ý tưởng rằng, rốt cuộc vũ trụ chỉ là sự kiện ngẫu nhiên.
Trong khi vũ trụ học làm nảy sinh những câu hỏi hướng ra bên ngoài, thì khoa thần kinh học lại cho thấy có một biên giới bên trong. Mỗi giây, bộ não người xử lý khoảng 11 triệu bit dữ liệu do giác quan cung cấp. Tuy nhiên, ở bất kỳ thời điểm nào, nhận thức hữu ý của chúng ta chỉ có thể nắm bắt trong khoảng 40 đến 60 bit dữ liệu. Hơn 99,999% lượng thông tin bị gạt bỏ trước khi đến được với ý thức.
Chuyện này không phải là một sự cố. Đây là cơ chế sinh tồn. Bộ não đã tiến hóa để nắm bắt những thông tin liên quan đến sự an toàn và duy trì nòi giống, chứ không phải để lĩnh hội tối đa thực tại. Điều chúng ta thấy, nghe và cảm nhận là một hình thức cô đọng của thế giới, chứ không phải chính thế giới. Như David Eagleman, một nhà thần kinh học đã viết, kinh nghiệm của chúng ta là một giao diện dành cho người dùng, chứ không phải cửa sổ trực tiếp dẫn đến cấu trúc của vũ trụ.
Ngôn ngữ, giống như năng lực nhận thức, đã phát tiển để đảm bảo sự sinh tồn. Chức năng hàng đầu của nó là để phối hợp chứ không phải mặc khải. Từ ngữ của chúng ta về các ý tưởng như vĩnh vửu, ý thức, hay thần thánh là những cách nói tiệm cận mang tính biểu tượng. Chúng là những nỗ lực để mô tả những khái niệm hầu như vượt quá khả năng mà ngôn ngữ chúng ta có thể diễn đạt trọn vẹn.
Rồi chính ý thức cũng là một mầu nhiệm chưa được lý giải. Chưa có lý thuyết khoa học hiện thời nào giải thích được lý do tại sao chúng ta có kinh nghiệm chủ quan. Người ta có thể nghiên cứu rất chi tiết về bộ não; và cả những hoạt động của nó cũng có thể đo lường được. Nhưng sự xuất hiện của nhận thức, của cái tôi, ký ức, cá tính và ý hướng, vẫn chưa được giải thích. Đây là điều các triết gia gọi là nan đề về ý thức. Vấn đề ở đây không phải là thiếu dữ liệu, nhưng là thiếu khung lý luận.
Bất chấp những tiến bộ về trí tuệ nhân tạo, khoa thần kinh học và tâm lý học nhận thức, chúng ta vẫn không hiểu được tại sao chủ thể lại biết mình đang cảm nhận. Chúng ta có thể mô tả cách mà các nơron thần kinh phát tín hiệu, nhưng lại công thể giải thích tại sao việc đó lại làm phát sinh cảm xúc về cái đẹp, đau khổ, sợ hãi hoặc tình yêu. Ý thức là một phần không thể chối cãi cũng như có tính cách nền tảng nhất của cuộc sống, tuy vậy, chúng ta lại không thể nói được nó là gì hay nó đến từ đâu.
Tất cả những ranh giới này, như sự vận hành chính xác của vũ trụ, các giới hạn toán học, sự cô đọng của tri giác và ý thức chủ thể, đều dẫn đến cùng một kết luận. Hiểu biết của con người thật mạnh mẽ nhưng không hoàn chỉnh. Trí năng thiết yếu nhưng có những biên giới. Có những chân lý vượt ra khỏi khả năng suy luận. Có những thực tại ngăn cản khả năng quan sát trọn vẹn. Có những câu hỏi không thể được giải đáp tự bên trong hệ thống mà chúng được đặt ra. Điều này không chứng tỏ cho sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nhưng nó khiến cho niềm tin vào một vũ trụ thuần túy vật chất, tự lý giải đầy đủ về mình khó có thể tiếp tục đứng vững. Sự thinh lặng của Thiên Chúa, thường được viện dẫn để bắt bẻ niềm tin, trong thực tế, xem ra lại phản ánh những giới hạn về mặt cấu trúc của chính chúng ta. Có thể sự thinh lặng ấy không phải là sự vắng mặt. Có thể nó là thứ tín hiệu mà chúng ta chưa được trang bị đầy đủ để giải mã.
Đức tin, dưới sự soi dẫn vừa nêu, không phải là cú nhảy lìa xa lý trí. Nhưng đó là một thừa nhận về mặt cấu trúc của lý trí. Đó là một sự sẵn lòng chấp nhận rằng, mọi giải thích đều có những giới hạn. Đức tin không phải sự mê tín. Đức tin là sự khiêm nhường của nhận thức.
Nếu vũ trụ đã bắt đầu bởi một khoảnh khắc mà chúng ta không thể lý giải, nếu cấu trúc vũ trụ phụ thuộc vào những hằng số mà chúng ta không thể suy luận, nếu xác suất tồn tại của nó thấp đến mức gần như không thể về mặt thực tiễn, và nếu chính những công cụ mà chúng ta sử dụng để khảo sát vũ trụ chịu ràng buộc về mặt sinh học, vậy thì chúng ta không thể phủ nhận khả năng tồn tại của một trật tự vĩ đại hơn, vượt khỏi khả năng nắm bắt của chúng ta.
Niềm tin đâu phải lúc nào cũng liên quan đến việc thấy được nhiều hơn. Đôi khi, nó bắt đầu bằng việc đón nhận những điều chúng ta không thể thấy.
Trong tác phẩm mới nhất của tôi, cuốn Người vô thần trở lại, tôi khám phá những câu hỏi này cách sâu sắc hơn, từ vũ trụ học đến ý thức, từ xác suất đến mục đích. Đây không phải là một hành trình lìa bỏ khoa học, nhưng bước theo khoa học cho đến tận những giới hạn của nó. Như Werner Heisenberg, nhà vật lý học từng đạt giải Nobel, thường quảng diễn, “Ngụm đầu tiên từ chiếc cốc của các khoa học tự nhiên sẽ đưa bạn trở thành một người vô thần, nhưng ở đáy cốc, Thiên Chúa vẫn đang chờ bạn”. Quy câu nói này cho ai vẫn còn chưa được thống nhất, nhưng dù sao, nó vẫn chứa đựng một sức khai sáng mạnh mẽ. Càng hiểu biết sâu sắc hơn về tính phức tạp, trật tự và mầu nhiệm của hiện hữu, chúng ta càng bị lôi cuốn, không phải để rời xa, nhưng càng tiến về phía niềm tin. Chúng ta tin, không phải vì sợ hãi hay tuân theo truyền thống, nhưng vì sự chân thực của lý trí. Chúng ta vẫn tồn tại, dẫu điều đó gần như bất khả. Và đó có lẽ là manh mối đầu tiên.