Những sai sót đầy lòng mộ đạo trong Kinh thánh
Toàn Nguyễn Văn, Grêgôriô Võ Trần Nhựt chuyển ngữ
2025-05-14T08:24:02-04:00
2025-05-14T08:24:02-04:00
https://gpquinhon.org/than-hoc/nhung-sai-sot-day-long-mo-dao-trong-kinh-thanh-6902.html
https://gpquinhon.org/uploads/news/2025/moses_by_michelangelo.jpg
Giáo phận Qui Nhơn
https://gpquinhon.org/uploads/banner-980x120_1.jpg
Thứ tư - 14/05/2025 05:07
Samuel J. Klumpenhouwer
Các khách hành hương đến Rôma để viếng thăm Vương cung thánh đường Thánh Phêrô mang Xiềng xích sẽ bắt gặp một cảnh tượng lạ thường: bức tượng điêu khắc Môsê của Michelangelo, đập ngay vào mắt với hai chiếc sừng nhô ra từ đầu tượng. Những người sống cùng thời với Michelangelo, những độc giả trung thành với bản Kinh thánh Vulgata, biết rằng khi Môsê từ trên núi Sinai xuống, ông “mọc sừng” vì trò chuyện với Đức Chúa. Tuy nhiên, những người xem bức tượng ngày nay nhanh chóng được cho biết, cặp sừng của Môsê thực ra bắt nguồn từ một lỗi dịch của bản tiếng Hípri. Khuôn mặt của Môsê không hề “mọc sừng” nhưng là “tỏa sáng” khi ông từ trên núi xuống. Các Kitô hữu theo truyền thống Latin đã phải mang sai sót ấy trong bản Kinh thánh của mình suốt cả thiên niên kỷ.
Mặc dù vậy, mối căng thẳng độc đáo nơi bức tượng Môsê của Michelangelo, diễn tả mối giằng co mãnh liệt bên trong một con người từng ở cùng với Thiên Chúa trên núi cao nhưng giờ phải đi xuống để lãnh đạo một đám dân vô ơn bạc nghĩa và tôn thờ ngẫu tượng, sẽ mất đi nếu thiếu khuôn mặt mang sừng của ngài. Điều này cũng đúng với rất nhiều đoạn Kinh thánh khác, chúng từng làm đắm say trí tưởng tượng của các Kitô hữu mộ đạo, nhưng nay là những điều chúng ta được dạy rằng cần phải loại bỏ. Những “sai sót” này nảy sinh từ nhiều nguyên nhân khác nhau: những bản dịch không hoàn hảo, các lỗi sao chép, các truyền thống với thủ bản khác biệt, sự hiểu biết không chính xác về lịch sử, v.v… Tuy nhiên, các Kitô hữu lại cho thấy một khả năng đáng kinh ngạc, khi họ đọc những sai sót Kinh thánh này trong sự tương hợp hoàn toàn với đạo lý chính thống và theo phương cách đem lại ơn cứu độ.
Hãy nhìn ngắm bức Mađalêna bên ngọn dầu hao (Magdalene with the Smoking Flame), một bức tranh sơn dầu trên vải của Georges de La Tour. Bức chân dung Maria Mađalêna của ông thúc đẩy người xem bước vào một cuộc suy gẫm thực sự về sự sám hối Kitô giáo, dù rằng người xem ngày nay thường bị làm cho bối rối bởi những lời cải chính không ngừng nghỉ của các học giả Kinh thánh, rằng chẳng có bằng chứng nào cho thấy Maria Mađalêna là người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, và thêm nữa, trình thuật về người phụ nữ ngoại tình (pericope adulterae) thực ra không nằm trong bản văn gốc của Kinh thánh.
Cũng vậy, có một trang lạ thường trong Phúc âm Kells, một thủ bản Tin mừng ở Celtic thế kỷ thứ IX, mô tả Đức Giêsu đang hấp hối trên Núi Cây Dầu. Giacôbê và Gioan ở bên Đức Giêsu, mỗi người nâng một cánh tay của Ngài. Khung cảnh này gợi lại hình ảnh trong sách Xuất hành, khi Aaron và Hur đã nâng hai tay của Môsê theo hình chữ thập, nhờ đó mà dân Israel đã làm nên chiến thắng kỳ diệu trước quân Amalek trong vùng sa mạc. Tuy nhiên, bức chân dung đặc biệt này của Đức Kitô, trong tư cách là Môsê Mới, lại được gợi hứng từ một lỗi ghi chép. Trong bản văn tiếng Latin của Phúc âm Kells (Mt 26,40), Đức Giêsu đặt câu hỏi cho Phêrô, ở dạng số ít thay vì số nhiều (potuisti thay vì potuistis – khác mỗi một ký tự!), tại sao chỉ mỗi một mình Phêrô không thể cùng thức với Ngài một giờ; như thế, loại Giacôbê và Gioan khỏi sự khiển trách. Điều này dẫn đến việc các độc giả ghi nhận rằng, Giacôbê và Gioan đã không ngủ quên, nhưng thay vào đó, đã kiên trì tỉnh thức cùng với Đức Giêsu suốt cơn hấp hối của Ngài.
Có một mối căng thẳng nội tại nơi Kitô giáo, giữa mong muốn về một sự chính xác nghiêm nhặt trong việc lưu giữ bản văn Kinh thánh với lòng nhiệt thành muốn làm lan tỏa Tin mừng, ủng hộ việc bản văn được sao chép và chuyển dịch rộng rãi, là điều chắc hẳn sẽ dẫn đến việc đánh đổi tính chính xác. Ngày nay, mối căng thẳng này tồn tại nơi sự tương phản giữa giới học thuật và lòng đạo đức bình dân, nhưng đây chẳng phải là chuyện gì mới lạ. Điều này đã được minh họa ngay đầu thế kỷ thứ V, qua cuộc trao đổi giữa thánh Giêrônimô và thánh Augustinô liên quan đến tình trạng rối rắm của bản văn Kinh thánh. Chúng ta có thể đồng tình với cả hai vị: tinh thần tranh đấu không nhân nhượng của thánh Giêrônimô để xác lập bản văn chính xác cho Kinh thánh và nhạy cảm mục vụ của thánh Augustinô trước nguy cơ gây cớ vấp phạm vì những thay đổi đột ngột bản văn phụng vụ.
Khi phân tích các thủ bản Latin Cũ của Kinh thánh được dịch từ bản Bảy Mươi bằng tiếng Hy Lạp, Giêrônimô khám phá ra, Kinh thánh đã bị sửa chữa và điều chỉnh quá thường xuyên đến nỗi “có bao nhiêu lần sao chép là có bấy nhiêu phiên bản”. Ngài nhanh chóng thực hiện một bản Latinh mới, dịch trực tiếp từ Hebraica veritas - “Chân lý Hípri”. Nhưng trong bối cảnh của một nền phụng vụ đã mang dấu ấn sâu đậm của bản Bảy Mươi, những nỗ lực của ngài gặp phải sự phản đối mạnh mẽ. Augustinô, khi cố gắng xoa dịu thái độ coi thường của Giêrônimô dành cho bản văn bấy giờ dùng trong phụng vụ, thuật lại câu chuyện về một giáo đoàn ở Bắc Phi lần đầu nghe bản dịch mới của sách Giôna từ tiếng Hípri do Giêrônimô thực hiện – nói rằng Giôna đã ngồi dưới cây thường xuân sau khi rao giảng cho dân Ninivê, thay vì dưới dây bí như bản Bảy Mươi ghi chép – họ đã dấy lên sự náo động dữ dội khiến giám mục của họ phải rút lại bài đọc ấy vì sợ mất đi đàn chiên của mình. Giêrônimô, kể cả nghe được câu chuyện này, vẫn phớt lờ mối bận tâm kể trên vì xem nó chẳng liên quan gì đến công cuộc ông đang theo đuổi.
Giáo hội dành vị trí cho cả hai vị. Bản dịch của Giêrônimô sau cùng đã trở thành bản Kinh thánh tiêu chuẩn cho Kitô giới Latin, và việc sử dụng lâu dài bản Kinh thánh này dẫn tới việc Đức Giáo hoàng Piô XII tuyên bố rằng, bản Vulgata “không mắc bất kỳ một sai lỗi nào trong lãnh vực đức tin và luân lý”. Tuy nhiên, sự cả quyết của Giêrônimô vào “Chân lý Hípri” cũng được làm dịu đi. Trong số các bản dịch Thánh vịnh của ngài, bản ban đầu mà ngài dịch từ tiếng Hy Lạp rốt cuộc lại được chấp nhận, chứ không phải bản cuối cùng dịch từ tiếng Hípri. Còn Augustinô, vị mục tử này, dù là một học giả văn bản chẳng mấy xuất sắc, lại trở thành người hướng dẫn chuẩn mực cho việc giải thích Kinh thánh; trong những vấn đề còn nhập nhằng, ngài thúc đẩy chúng ta: “Độc giả hãy tham chiếu đến quy luật đức tin, là điều được rút ra từ những đoạn Kinh thánh sáng rõ hơn, và từ thẩm quyền [giải thích] của Giáo hội”.
Nguồn: https://www.wordonfire.org
[Ng.d.] Một bản thảo Kinh thánh gồm bốn sách Tin mừng bằng tiếng Latin, công trình của những đan sĩ dòng thánh Columba tại đảo Iona gần Scotland đi lánh nạn ở thành Kells (Ireland). Bản thảo này hiện được lưu giữ tại Thư viện Trinity College, Dublin, Ireland và đã được số hóa. Có thể xem khung cảnh Giacôbê và Gioan nâng hai cánh tay Đức Giêsu tại đây: Folio | Book of Kells. Folio 114r: Matthew | ID: db78tc256 | Digital Collections
[Ng.d.] Cụm từ thánh Giêrônimô dùng để chỉ nguyên bản Kinh thánh bằng tiếng Hípri.
[Ng.d.] Đối với tên loài cây mà Thiên Chúa cho mọc lên để che mát Giôna (קִיקָי֞וֹן), thánh Giêrônimô dịch sang tiếng Latin là hedera (thường xuân); còn bản Bảy Mươi dịch là κολοκύνθη (cây dây họ bầu bí), các bản Latin cũ trước Giêrônimô cũng thường dịch là cucurbita (cây dây họ bầu bí).