Thực hư có giáo sĩ I-nê-xu lén truyền giáo ở Đại Việt năm 1533

Thứ bảy - 25/10/2025 09:12
Xưa nay nhiều tài liệu giáo sử cho rằng năm 1533 có giáo sĩ I-nê-xu (hay I-nê-khu, I-ni-khu) đến truyền giáo tại Ninh Cường, Quần Anh huyện Nam Chân, và Trà Lũ huyện Giao Thủy, thuộc tỉnh Nam Định ngày nay. Từ đó, năm 1533 được nhiều nhà sử học Công giáo Việt Nam chọn là năm khởi đầu lịch sử truyền giáo của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Giáo sĩ I-nê-xu thuộc dòng tu nào? Thực hư việc ông đến Đại việt truyền giáo vào năm 1533? Bài này tổng hợp một số ý kiến của các tác giả về nhân vật I-nê-xu và thời điểm ông đến truyền giáo tại Đại Việt.

1. CÁC NGUỒN SỬ CÓ NỘI DUNG VIỆC GIÁO SĨ I-NÊ-XU ĐẾN ĐẠI VIỆT TRUYỀN GIÁO VÀO NĂM 1533.
1.1- Bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục[1] nhắc lại thông tin của Đại Việt Sử Ký Toàn Thư về việc Lê Huyền Tông (Cảnh Trị) cấm đạo Hoa Lang năm 1663,[2] đồng thời còn thêm lời chua (giải thích) về mốc điểm đạo Hoa Lang được truyền vào Đại Việt:

Tháng 10, mùa đông [1663]. Nhắc rõ lệnh cấm người theo tả đạo Gia tô : “Trước đây, có người Tây Dương gọi là Hoa lang di, vào ở trong nước ta đem đạo dị đoan của Gia tô lừa dối dụ dỗ làm ngu muội dân chúng, những người quê mùa nông nổi phần nhiều tin mộ đạo ấy, họ lập tòa giảng nghe giảng đạo, sự mê hoặc đắm đuối mỗi ngày càng sâu rộng. Trước đã hạ lệnh đuổi người truyền đạo ấy đi, nhưng còn bọn tiểu nhân thấm sâu vào tập tục ấy chưa thay đổi được, nên đến nay lại hạ lệnh cấm. Lời chua: Gia - tô: Theo sách Dã Lục, thì ngày tháng 3 năm Nguyên Hòa thứ nhất (1533) đời Lê Trang Tông, người Tây Dương tên là Y-nê-xu lén lút đến xã Ninh Cường, xã Quần Anh huyện Nam Chân và xã Trà Lũ huyện Giao Thủy, ngấm ngầm truyền giáo về tả đạo Gia tô.” [3] Theo Lời chua (chú thích), thì Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (KĐVS) cho biết thông tin này được trích từ dã lục, nghĩa là từ những nguồn tin của tư nhân trong dân gian, không phải nguồn tin chính thống được các sử quan biên soạn.[4]

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (ĐVSK)[5] có nói đến việc cấm đạo vào năm 1663. ĐVSK viết sự kiện như thế vào lúc Đại Việt bị chia đôi: Đàng Ngoài và Đàng Trong, cả hai Đàng đều phục nhận vua Lê là vua của Đại Việt nhưng quyền hành đều nằm trong tay của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Đúng là năm 1663, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài cũng như chúa Nguyễn ở Đàng Trong đều ra lệnh cấm đạo. Tưởng cần nhắc lại ở đây, thời điểm cấm đạo 1663, giáo phận Đàng Trong và giáo phận Đàng Ngoài đã được thành lập từ năm 1659 và được hai Giám mục Hội thừa sai hải ngoại (MEP) đảm nhiệm. Tuy nhiên, lúc bấy giờ các thừa sai Dòng Tên vẫn còn làm việc ở cánh đồng truyền giáo nầy. Cha Joseph Tissanier, thừa sai Dòng Tên ở Đàng Ngoài, người phải chịu lệnh cấm đạo của chúa Trịnh, bị trục xuất ngày 12.11.1663, kể tình hình truyền giáo ở Đàng Ngoài vào năm 1663: Trên 350 ngàn tín hữu, 06 Cư sở, 386 nhà thờ.[6] Sự kiện cấm đạo nầy xảy ra trước khi ĐVSK được khởi viết chỉ có 34 năm, được xem như ai cũng biết đạo Hoa Lang do các thừa sai Dòng Tên (người nước Hoa Lang) đang truyền giảng mà không cần phải chú thích gì thêm. Thật vậy, trước lệnh cấm đạo năm 1663, Thời chúa Trịnh Tráng (1627-1658) đã có 5 sắc lệnh cấm đạo: năm 1629 là sắc lệnh lần đầu tiên tại Đàng Ngoài và các năm 1632, 1635, 1638, 1643. (Các thừa sai Dòng Tên đã vào Đàng Ngoài ngày 19.3.1627). Thời chúa Trịnh Tạc (1658-1682) có 3 sắc lệnh: năm 1658, 1663, 1669. Ở Đàng Trong các chúa Nguyễn có các sắc lệnh cấm đạo vào các năm trước 1663: 1625, 1639, 1644.
 
Như vậy chữ “trước” mà ĐVSK viết ở đây nhằm xác định trước năm 1663, đã có những lệnh cấm đạo như vừa kê ở trên. Tuy nhiên, về thời điểm Kitô giáo du nhập cũng như người nào hoặc đoàn thừa sai nào đã đến truyền giáo tại Đại Việt, các bộ chính sử khác được viết trước năm 1533, trước đầu thời Lê Trang Tông cũng như từ thời Lê Trang Tông (1533) đến đầu thời Lê Huyền Tông (1663) và thời nhà Mạc (1527-1592) không hề đề cập đến một chi tiết nào về nhân vật I-nê-xu (Y-nê-xu) lén vào truyền giáo ở Đại Việt vào năm 1533. Do đó, KĐVS phải căn cứ vào dã lục và viết ở Lời chua.

Khi viết về thời Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng (1740-1786), KĐVS viết về việc cấm đạo năm Cảnh Hưng thứ 15 (1754): "Trước kia, vào khoảng năm Nguyên Hòa (1533-1548) đời Lê Trang Tông, Y-Nê-Xu, người Tây Dương, mới đem đạo ấy vào vùng ven biển, thuộc huyện Giao Thủy, huyện Nam Chân, lén lút truyền giáo, gọi là "đạo thiên chúa" cũng gọi là "Thập tự giáo". Giáo lý này dùng thiên đường địa ngục để phân biệt báo ứng về điều thiện, điều ác, cũng gần giống đạo Phật, có thêm vào thuyết xưng tội, rữa tội nữa. Họ ngày đêm dụ dỗ, lừa dối, những người ngu xuẩn quê mùa bị họ làm mê hoặc đắm đuối, dầu có lệnh cấm, chết cũng không bỏ. Khoảng năm Cảnh Trị (1663-1671) và Chính Hòa (1680-1704), triều đình đã nhiều lần ra cấm lệnh rõ ràng, nhưng vì lòng dân bị che lấp đã lâu, rút cuộc không thay đổi được. Đến nay lại bàn cấm đoán nghiêm ngặt hơn, nhưng cũng không thể nào ngăn cấm được". Ở đây KĐVS ghi Lời chua: " Tả đạo Hòa Lan: Tức tả đạo Hoa Lang, xem Huyền Tông, năm Cảnh Trị thứ nhất (Chb. XXXIII, 5, 6), tức Lời chua của KĐVS đã đề cập trên đây.

Theo wikipedia, triều đình nhà Hậu Lê lại khởi động biên soạn quốc sử. Công việc này được chúa Trịnh Tạc giao cho một nhóm quan văn, đứng đầu nhóm biên soạn này là Phạm Công Trứ. Nhóm có hai nhiệm vụ:
- Khảo đính các bộ quốc sử đã có.
- Biên soạn tiếp nối quốc sử từ năm 1533, đầu đời Lê Trang Tông đến năm 1662.

Để thực hiện công việc, nhóm Phạm Công Trứ đã phải tìm đến khá nhiều các nguồn tư liệu bên ngoài triều đình, trong đó có nguồn tư liệu mà nhóm Phạm Công Trứ dựa vào để biên soạn giai đoạn lịch sử này là "dã sử của Đăng Bính", "sách sót lại của người đương thời dâng hiến". Lai lịch sử gia Đăng Bính hiện nay chưa rõ ràng.[7]

Tác giả wikipedia chỉ đưa ra "dã sử của Đăng Bính" và cho lai lịch sử gia Đăng Bính hiện nay chưa rõ ràng, không cho biết sách dã sử của Đăng Bính hiện nay có không? ở đâu? Nguồn dã lục về nhân vật I-nê-xu lén vào truyền giáo ở Đại Việt vào năm 1533 mà KĐVS lấy ở đâu để đưa vào lời chua? Dù nguồn nào, vẫn là Dã lục chứ không phải chính sử.

1.2- Lê Triều Dã Sử, hiện nay được lưu trữ tại Thư viện Hán Nôm với ký hiệu A.17/1-2 và A.2703. Hai bản nầy có nội dung khác nhau. Phần cuối trang [5b] quyển A.17/1-2 có chép dở dang: Tháng 3 năm Nguyên Hòa thứ nhất đời Lê Trang Tông (1533-1548) người Hòa Lan bên Tây Dương, tên là Y-Nê-Khu trộm đến Nam Chân …

Lê Triều Dã Sử không đề tên tác giả và niên đại.[8] Tuy nhiên căn cứ vào những chữ húy trong bản văn có thể dự đoán bản văn này được soạn vào thời điểm trong hoặc sau thời Tự Đức, vì trong văn bản có kiêng các chữ húy như “Nhân”, “Thì”…Qua văn phong, lối dùng các danh từ, đại từ chỉ định đều có nét thể hiện khuynh hướng hoài Lê, và xem Tây Sơn như tặc khấu. Dùng danh từ “Đế” để gọi vua Lê, còn đối với nhà Tây Sơn, hoặc chỉ dùng riêng từ Tây Sơn, hoặc chỉ gọi riêng tên của Nguyễn Huệ là Huệ; Nguyễn Nhạc là Nhạc …; hoặc với cuộc khởi nghĩa của nhà Tây Sơn thì thường gọi là “Tây Sơn chi loạn 西山之亂” hoặc với ý hằn học, miêu tả những lần công phá của nhà Tây Sơn bằng những động từ cướp bóc, khấu tặc…

1.3-Tây Dương Gia Tô Bí Lục
- Tác giả: Phạm Ngộ Hiên, Nguyễn Hoà Đường, Nguyễn Bá Am và Trần Đình Hiên.

- Tây Dương Gia Tô Bí lục là ấn bản Việt ngữ do Ngô Đức Thọ dịch từ bản tiếng Hán và dịch giả viết lời giới thiệu do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội phát hành năm 1981.

- Tây Dương Gia Tô bí lục được dịch giả cho biết trong lời giới thiệu là một truyện ký dã sử bằng tiếng Hán, được khởi thảo từ năm 1794. Sách in xong năm Gia Long 11 (1812). Quyển sách hiện lưu giữ tại Thư viện khoa Sử Trường đại học Tổng hợp Hà Nội mang ký hiệu HV26. Bản HV26 là một cuốn sách chép tay có nguồn gốc trong dân gian. Được Nguyễn Bá Am – Trần Trình Hiên kính cẩn vái đề ở cuối lời tựa “Viết vào tháng Hoa đào [tức tháng Hai] năm Giáp Dần [1794], thời nhà Lê suy tàn”.[9]

- Tây Dương Gia Tô Bí Lục viết: Nước ta về thời Hậu Lê đời vua Trang Tông Dụ hoàng đế, năm Quý Tị niên hiệu Nguyên Hòa thứ I (1533), giặc Tây sai giám mục khâm mạng là Ingatiô [I-nê-Xu, I-ni-khu, Y-nê-khu] lẻn vào lén lút truyền đạo ở làng Ninh Cường, huyện Nam Chân. Trước đó giám mục khâm mạng ở Ma Cao, qua dò la thăm hỏi người Tàu đã biết rõ phong tục và hiện tình nước Nam ta, bèn gửi thư về mật tâu với Giáo hoàng rằng: Nước Nam giáp với nước Thanh, có hai nơi thuận tiện cho việc truyền đạo: một là Gia Định, dân chúng hung hãn, cứng đầu; hai là Nam Chân, phong tục quê mùa cổ lậu. Vả lại ở nước ấy không có lệnh cấm dị ngôn dị phục, mà hiện nay thì hai họ Lê, Mạc đang tranh giành với nhau, trong nước nhiều việc, không ai rỗi mà soát xét những việc nhỏ nhặt. Xin sai giám mục Ingatiô làm khâm mạng, theo thuyền biển mà sang, bảo viên ấy rằng: Nam Chân là nơi phong tục cổ xưa thô lậu, nên đến đó trước. Ingatiô sang đến nước ta bèn lẻ vào cư ngụ ở các làng Quần Anh, Trà Lũ, Ninh Cường, đến đâu đều cho tiền, phát thuốc, khiến cho những kẻ ngu khờ phải mang ơn mà chịu nghe giảng đạo. Từ đó đạo Gia Tô mới bắt đầu lan đến nước ta. Về sau môn đồ của Ingatiô đều được phong làm giám mục, xin được lấy tên thánh của thầy làm tên của dòng đạo. Nhưng Ingatiô khiêm tốn không dám nghe theo, chỉ lấy tên Jêsu làm tên gọi của dòng. Từ đó nước ta bắt đầu có giặc Tây Dương lẻn vào cai quản”. (Quyển IX)

1.4- P. J.B. Trương Vĩnh Ký:
Học giả Trương Vĩnh Ký viết về lịch sử Việt Nam, trong đó ông viết sự kiện cấm đạo năm 1663 cùng với lời chú thích về nguồn gốc việc truyền giáo tại Đại Việt ở cuối trang: “Tháng 3 năm Nguyên Hòa (vua Lê Trang Tông), một người châu Âu tên là I-nê-xu (Ignatio, Ignace) đến các làng Ninh Cường, Quần Anh, Nam Chơn, và ở các làng Trà Lũ, Giao Thủy, lén truyền giáo lý của tả đạo Giatô (Giêsu)”. Nguồn chú thích này, Trương Vĩnh Ký cho biết đã tìm thấy trong Biên niên sử (Note trouvée dans les annales). [10]

Chú thích của Trương Vĩnh Ký giống như lời chua ở Khâm Định Việt Sử. Tuy nhiên sách của Trương Vĩnh Ký xuất bản năm 1877, sau Đại Việt Sử Ký và trước Khâm Định Việt Sử. [11] Vậy tài liệu mà Trương Vĩnh Ký dùng ở chú thích và nguồn của Khâm Định Việt Sử dùng để chua có phải cùng một nguồn? Nếu vậy, nguồn này là nguồn nào mà Trương Vĩnh Ký nêu nguồn trong Biên Niên Sử chứ không phải dã sử? Vậy phải chăng bản khởi thảo của Khâm Định Việt Sử (1856) hoặc các bản nhuận chính sau bản thảo trước khi được khắc in và ban hành (1884) đã được Trương Vĩnh Ký tiếp cận? Dù gì đi nữa, Trương Vĩnh Ký không đặt ở chính văn, ông đặt ở chú thích và ông chỉ cho biết chú thích ấy “Được tìm thấy trong Biên niên sử”. Tuy nhiên, “Biên niên sử” nào?, một nguồn gốc không xác định rõ ràng.

2. MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ VIỆC NHÂN VẬT I-NÊ-XU (I-NI-KHU, I-NÊ-KHU, Y-NÊ-XU)) VÀ MỐC ĐIỂM NĂM 1533.
2.1. Gs. A. Bonifacy:
a. Trong quyển sách “Les Débuts du Christianisme en Annam – Des origines au 18è siècle, Hà Nội 1937”, Bonifacy viết:
Nhưng, trước thời điểm đó rất lâu, một nhà truyền giáo châu Âu đã ở An Nam. Thật ra, ông Deloustal đã đọc thấy trong quyển Gia lục hoặc những ký sự không chính thức, về tên gọi của Gia-tô (Giêsu) đoạn văn như sau: Vào tháng 3 năm Nguyên Hoà thứ nhất đời vua Lê Trang Tông (1533), một Dương nhân, tên là I-Ni-Khu, lén lút đến các làng Ninh Cường và Quần Anh của Huyện Nam Chân, và Giao Thủy ở Trà Lũ, và bí mật truyền dạy giáo lý sai lầm của Gia Tô.

Thế nhưng, vào năm ấy, Lê Trang Tông vừa được xưng vương ở Lào, Mạc Đăng Doanh, con trai của kẻ cướp ngôi, trị vì toàn cõi Bắc Kỳ.

I-ni-khu dường như là phiên âm của Inigo hoặc Ignace, và đó là tất cả những gì tôi có thể nói được về nhân vật tiền trạm này, chứ tôi không có thói quen trưng dẫn những giả thuyết ít nhiều có giá trị như những sự kiện lịch sử”. [12]

b. A. Bonifacy viết ở Lời tựa bản dịch của ông về tác phẩm của Borri “Relation de la nouvelle Misssion au Royaume de Cochinchine: “Năm thứ nhất triều Nguyên Hòa (vua Lê Trang Tông, 1533), có chiếu vào tháng thứ 3 cấm một Dương nhân danh Chúa Giê-su (Gia - tô) truyền đạo tại các làng Ninh Cường, Quần Anh, huyện Nam Chân, nay là Nam Trực và ở làng Trà Lũ huyện Giao Thủy, tỉnh Sơn Nam, nay là Nam Định. Theo sắc chỉ, người này tên là I-ni-khu, tức là Inigo (Ignatius), Có lẽ là một tu sĩ đến từ Malacca”. [13] Bonifacy dè dặt, ông dùng cách nói “Có lẽ”.

Từ hai bản văn nêu trên, Gs. A.Bonfacy dè dặt khi viết về nhân vật Inikhu (I-nê-xu). Bonifacy không xác nhận, không phủ nhận nhân vật này. Cách viết cho thấy lập trường của A. Bonifacy về nhân vật I-nê-xu đó là một nhật vật tồn nghi. Đó chính là điều ông đã thể hiện uy tín và thế giá của ông, một giáo sư làm việc có khoa học.

2.2. Linh mục Bùi Đức Sinh, O.P. khi đề cập đến sự kiện Khâm định Việt Sử thông giám cương mục đã viết về nhân vật và mốc điểm lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, Linh mục Bùi Đức Sinh viết: “Giáo sĩ I-Ni-Khu là người nước nào và thuộc dòng tu nào? Không một sử liệu nào nói rõ. Có tác giả cho ngài là một linh mục dòng Đaminh Tây Ban Nha, nhưng cũng có tác giả khác nói I-Ni-Khu thuộc dòng Phanxicô hoặc dòng Tên quốc tịch Bồ Đào Nha.

Nếu giáo sĩ I-Nê-Khu là một cha dòng Đaminh thì không thể là cha Inigo de Santa Maria như sử gia Gispert đã muốn gán cho. Vì cha Inigo từ Manila sang Cao Miên năm 1604, rồi cùng năm ấy cha qua đời trên đường trở về Manila để xin thêm cán bộ truyền giáo. Như vậy nếu cha Inigo cũng có mặt ở đất Bắc hồi năm 1533 thì khi từ trần cha phải thọ cả 100 tuổi. Một linh mục đã già gần 100 tuổi, thiết tưởng không một bề trên nào sai đi từ Manila sang Cao Miên giảng đạo. Nhưng nếu không phải là cha Inigo de Santa Maria, thì có thể là một trong những thừa sai Đaminh Bồ Đào Nha, thuộc tỉnh dòng Thánh giá Đông Ấn, là tỉnh dòng đảm nhiệm công việc truyền giáo vùng Đông Nam Á bấy giờ.

Rất có thể I-Ni-Khu là một giáo sĩ dòng Phan sinh Bồ Đào Nha, vì các cha dòng này cũng như dòng Đaminh đã bắt đầu giảng đạo ở Á Đông từ thế kỷ XVI, nhất là những giáo sĩ thuộc hai quốc tịch Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Còn giả thuyết cho rằng I-Ni-Khu thuộc dòng Tên không thể chấp nhận được, vì thánh Inhaxu lập dòng năm 1540, nghĩa là sau sự kiện đã xãy ra đến 7 năm. Nói tóm, ngoài những chi tiết mà Khâm định Việt Sử kể lại, phải quyết định như Bonifacy rằng: “Người ta không biết gì hơn về vị giáo sĩ I-Ni-Khu”.[14]

2.3. Hai tác giả Chu Thiên và Đinh Xuân Lâm trong bài viết tựa đề “Tây Dương Gia tô bí lục, một tài liệu lịch sử quý giá nêu cao tinh thần yêu nước chống xâm lược” đã viết: “Về mốc lịch sử đầu tiên của đạo Gia tô ở nước ta, tác giả [Tây dương Gia tô bí lục] viết: “Đời Trang-tông Du hoàng đế năm Quý tỵ, năm đầu niên hiệu Nguyên-hòa, Y-nê-khu lén lút đến ẩn nấp ở làng Ninh-cường…”.

Hai tác giả viết tiếp: “Chc chắn là sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn đã căn cứ vào đấy, nên mới chua : “Lê Trang-tông, niên hiệu Nguyên- hòa năm đầu, có người Tây là Y-nê-khu lén vào truyền giáo ở các làng Quần-anh, Ninh- cường, huyện Nam-chân (tức Nam-trực ngày nay) và các làng Trà-Iũ, huyện Giao-thủy, đều thuộc tỉnh Nam-định ngày nay”. Về thời điểm này, chúng tôi ngờ rằng chưa được đúng với sự thật và cần được nghiên cứu thêm. Những sách cũ của các giáo sĩ Tây phương viết chưa có quyển nào xác minh công nhận. Theo chỗ chúng tôi biết thì thời kỳ này, miền Bắc còn thuộc nhà Mạc (Mạc Đăng Doanh) và trong các sách về truyền giáo của thời kỳ này, không thấy nói đến việc này”.[15]

2.4. Trần Thanh Ái, tác giả bài viết “Người Bồ Đào Nha đến Đại Việt”[16] đã viết: “Khâm định Việt sử thông giám cương mục có ghi năm 1533 một người Tây dương tên là I-nê-xu, mà nhiều nhà nghiên cứu cho là phiên âm từ Inácio, đến truyền đạo tại Nam Định. Mốc thời gian này được Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Hồng, Manguin, v.v. dẫn lại. Mặc dù sự việc trên chỉ được ghi lại trong dã lục, và không thấy tài liệu nào của Bồ Đào Nha ghi về việc truyền giáo trong giai đoạn này, nhưng không vì thế mà phủ định ghi chép trên, vì việc truyền đạo là một trong những nhiệm vụ được vua Bồ Đào Nha đề ra khi tổ chức các đoàn thám hiểm về phương Đông nối tiếp tinh thần thập tự chinh của những thế kỷ trước. Thật vậy, trong các chuyến hải hành, thường có các nhà truyền giáo tháp tùng cùng các đoàn thám hiểm và thương mại. Cũng chính vì thế mà ngay sau khi chiếm Malacca, dòng Saint-Dominique thành lập tỉnh dòng Sainte-Croix phụ trách các nước vùng Đông Ấn Độ.

Tuy nhiên, nhiều chi tiết cho phép nghĩ rằng dã lục mà Khâm định Việt sử thông giám cương mục sử dụng để nói về việc người Tây dương đến truyền đạo chính là tài liệu Tây dương Gia tô bí lục, vì các chi tiết liên quan đến việc các nhà truyền đạo Thiên chúa vào nước Đại Việt của hai tài liệu này trùng khớp với nhau hoàn toàn:

Nước ta về thời Hậu Lê đời vua Trang Tông Dụ hoàng đế, năm Quý Tị niên hiệu Nguyên Hòa thứ I (1533), giặc Tây sai giám mục khâm mạng là Ingatiô lẻn vào lén lút truyền đạo ở làng Ninh Cường, huyện Nam Chân.” (Tây dương Gia tô bí lục, 1981).

Trần Thanh Ái nêu lên một vài sự kiện liên quan đến sự kiện nêu trên trong Tây dương Gia tô bí lục rồi nêu quan điểm: “Các điều trên đây khiến người đọc phải nghi vấn về tính chính xác của nhiều chi tiết trong Tây dương Gia tô bí lục. Có thể là khi biên soạn (cuối thế kỷ XVIII), các tác giả đã dựa vào những hồi ức cộng đồng thuộc nhiều thế hệ (tính từ 1533 đến khi biên soạn tài liệu này thì hơn 260 năm) nên rất dễ có sự nhầm lẫn về thời gian, tên tuổi, và kể cả sự kiện. Cũng không loại trừ khả năng đó là kết quả của sự sáng tạo cá nhân được xây dựng trên nền lịch sử, như thường thấy trong nhiều tác phẩm du ký của châu Âu ngày xưa như bộ Peregrinaçào của Fernão Mendes Pinto. Chính vì thế mà nhiều nhà nghiên cứu gọi Tây dương Gia tô bí lục là truyện ký dã sử”.

Trần Thanh Ái viết tiếp: “Một giả định khác: nếu dã lục mà Khâm định Việt sử thông giám cương mục sử dụng không phải là Tây dương Gia tô bí lục mà là một tài liệu khác, không liên quan đến việc giảng đạo của các giáo sĩ dòng Tên, liệu có dòng truyền giáo nào khác đến Đại Việt năm 1533 không?”. Đặt vấn đề và đưa ra một số sự kiện lịch sử, rồi tác giả đi đến kết luận: “Tóm lại, những chi tiết mà Khâm định Việt sử thông giám cương mục dẫn lại từ dã lục là không phù hợp với những dữ liệu lịch sử đã được xác nhận”. [17]

2.5. Lm. Vinhsơn Trần Minh Thực, PSS, HỘI THÁNH và QUÊ HƯƠNG, Tài liệu thường huấn cho Linh mục đoàn Giáo phận Bắc Ninh, 6.2018, trang 22-25:
{Sử quan nhà Nguyễn chép lại sự kiện đã được sử quan nhà Lê biên soạn và bổ sung thêm một số thông tin. Đặc biệt, sử quan nhà Nguyễn ghi thêm chú thích về các tên gọi Tây Dương, Hoa Lang, và Gia-tô. Riêng với tên gọi Gia-tô, sử quan triều Nguyễn đã đưa ra thông tin về việc giáo sĩ người Tây dương tới truyền đạo vào năm Nguyên Hoà nguyên niên, 1533. Những chi tiết này khiến nhiều học giả lấy mốc này như khởi thuỷ việc rao giảng Tin Mừng tại Đàng Ngoài.[18] Chúng tôi nghĩ rằng cần phải xem xét lại các thông tin của sử quan triều Nguyễn liên quan đến tên gọi này.

Trước hết, sử quan triều Nguyễn cho biết nguồn tham chiếu của họ là sách Dã Lục. Thực ra, Dã Lục không phải là tên sách, mà là cách gọi chung những ghi chép trong dân gian, tức không phải sử kí chính thức của triều đình. Xét về mặt thông tin, lời chú của bộ KĐVTGCM giống với quyển 9 cuốn Tây dương Gia-tô bí lục (từ đây ghi TDGTBL) đến kì lạ,[19] dù hai sách này thuộc những thể loại văn chương rất khác nhau. Chúng tôi xin nêu ra ở đây những chi tiết giống nhau và khác nhau của hai bản văn này.

Những điểm giống nhau:[20]
- Mốc thời gian: Lê Trang Tông Nguyên Hoà nguyên niên;
- Nhân vật: I-nê-xu (衣泥樞)[21];
- Các động từ: tiềm – lai ( );
- Các địa danh: Ninh Cường thuộc Nam Chân (南眞之寧彊); Ninh Cường, Quần Anh, Trà Lũ.

Những điểm khác nhau:
- Về mốc thời gian, bản KĐVTGCM ghi cụ thể hơn: “ngày 3 tháng 3 thời Trang Tông, Nguyên Hoà năm thứ nhất” (莊宗元和元年三月日); bản TDGTBL thêm vào thuỵ hiệu “Dụ hoàng đế” của vua Lê Trang Tông, thêm chi tiết “ngã quốc hậu Lê” ở đầu, và thêm năm “Quí Tị” trước niên hiệu Nguyên Hoà (我國後黎莊宗裕皇帝癸巳元和元年).
- Về nhân vật, bản KĐVTGCM ghi trực tiếp: “Người Tây dương tên là I-nê-xu lẻn đến Ninh Cường thuộc Nam Chân …”; bản TDGTBL ghi rằng I-nê-xu được sai đi: “Giặc Tây dương sai đốc chính I-nê-xu đến, lén lút ở Ninh Cường thuộc Nam Chân…”[22]
- Về các động từ, bản KĐVTGCM ghép hai động từ tiềm lai, nghĩa là lẻn đến, động từ ẩn được đặt ở phía sau khi nói về hành động của I-nê-xu; bản TDGTBL tách hai động từ lai, nghĩa là đến, rồi ghép động từ tiềm với hai động từ doanh và ẩn ở phía sau.
- Về các địa danh, bản KĐVTGCM ghi địa danh chính xác hơn: “lẻn đến Ninh Cường, Quần Anh thuộc Nam Chân, Trà Lũ thuộc Giao Thuỷ” (潜来南眞之寧彊羣英膠水之茶縷); bản TDGTBL, khi nói về I-nê-xu đến, chỉ ghi “lén lút ở Ninh Cường thuộc Nam Chân” (潜營隠于南眞之寧彊), sau mới ghi thêm “I-nê-xu đã lén đến ở các xã Quần Anh, Trà Lũ[23], Ninh Cường” (衣泥樞来潜居羣英茶屡寧彊). TDGTBL cũng còn nhắc đến Gia Định.
 
Một ghi nhận khác cũng cần lưu ý, hành động của I-nê-xu được miêu tả trong KĐVTGCM là “… ngấm ngầm đem Gia-tô tả đạo truyền giáo”, còn trong TDGTBL lại ghi “cho tiền, phát thuốc, khiến cho những kẻ ngu khờ phải mang ơn mà chịu theo đạo”. Dĩ nhiên, còn phải kể đến rất nhiều tình tiết thêm thắt khác nữa để cốt truyện trở nên gay cấn hấp dẫn, vì cuốn TDGTBL được viết theo lối tiểu thuyết chương – hồi.

Những so sánh này cho thấy rằng dường như sử quan triều Nguyễn đã tham khảo, điều chỉnh thông tin từ TDGTBL và viết lại theo lối văn sử kí chuẩn mực.[24] Chi tiết địa danh Gia Định vốn không cần thiết và sai niên đại trong TDGTBL được lược bỏ. Nếu sự việc đã diễn ra như vậy, nghĩa là sử quan nhà Nguyễn tham khảo TDGTBL rồi ghi chú thêm vào lệnh cấm đạo năm 1663 thời Lê-Trịnh, những thông tin về sự kiện năm 1533 có giáo sĩ I-nê-xu lẻn vào truyền giáo ở nước ta nơi lời chua ở bộ KĐVTGCM quả thật không đáng tin cậy về mặt sử tính”.[25]
Ngoài ra, cũng cần phải nói thêm rằng bộ KĐVTGCM được biên soạn khoảng những năm 1856-1884, tức hơn 300 năm sau thời điểm 1533. Thông tin chúng ta đang bàn được ghi ở phần lời chú, với nguồn khá mập mờ là Dã Lục, nhằm bổ sung thông tin về lệnh cấm đạo năm 1663, mốc thời gian 130 năm sau thời điểm 1533. Đó là những lí do thêm vào khiến những thông tin càng thêm đáng ngờ về mặt sử tính}.

3. NHẬN ĐỊNH:
3.1. Việc Khâm Định Việt Sử đã lấy nguồn từ Tây Dương Gia Tô Bí Lục?
Một trong những lý do mà các nhà nghiên cứu nại vào để đưa ra quan điểm Khâm Định Việt Sử đã lấy nguồn từ Tây Dương Gia Tô Bí Lục về sự kiện I-nê-xu lén vào truyền giáo ở Đại Việt vào năm 1533 là dựa vào mốc điểm ra đời của hai tác phẩm và sự trùng hợp về chi tiết sự kiện. Tây Dương Gia Tô Bí Lục ra đời trước, được khởi thảo từ năm 1794[26] và được in năm Nhâm Thân, Gia Long 11 (1812).[27] Khâm Định Việt Sử được bắt đầu biên soạn theo lệnh vua Tự Đức từ năm 1856, viết xong 1881, khắc in 1884.[28]

Tuy nhiên, nếu Tây Dương Gia Tô Bí Lục được khởi thảo năm 1794 và được in năm 1812, thì tại sao trong bản Tây Dương Gia Tô Bí Lục được lưu giữ hiện nay, được dịch, được xuất bản, có những sự kiện lịch sử xảy ra sau khi tác phẩm ra đời? Chẳng hạn, sự kiện chiến tranh nha phiến giữa Anh và Trung Quốc xảy ra giữa thế kỷ 19 (1840 – 18431856 – 1860) được Tây Dương Gia Tô Bí Lục đề cập đến: “Năm thứ 20 (1840), vua Đạo Quang hạ lệnh cấm, kẻ nào hút trộm thì xử chém, tịch thu gia sản”.[29]

Vấn nạn nầy được Ngô Đức Thọ, dịch giả tác phẩm lý giải trong phần giới thiệu: “Ngoài phần chính văn, trong sách còn có nhiều ghi chú viết chữ nhỏ lưỡng cước… Điều đó cho thấy rằng trước đây Tây Dương Gia Tô bí lục đã được dư luận chú ý và từng có một vài người khác tham gia vào việc chú thích bình luận tác phẩm. Hơn thế, phải chăng trong định bản hiện nay phần nào còn có vai trò nhuận sắc, bổ sung của một trong những người khuyết danh, chẳng hạn ở đoạn nói về sự kiện chiến tranh thuốc phiện ở Trung Quốc? Điều đó hiện còn chưa rõ. Dẫu sao thì việc có một vài người khác đã tham gia bình luận, chú thích, một bộ phận hợp thành của tác phẩm, là điều đã rõ. Vì vậy, chúng tôi cho rằng về tác giả Tây Dương Gia Tô bí lục, ngoài bốn tác giả: [Phạm Ngộ Hiên, Nguyễn Hoà Đường, Nguyễn Bá Am, Trần Trình Hiên], nên kể thêm sự đóng góp của một vài người khuyết danh ở nửa cuối thế kỷ XIX nữa”.[30]

3.2. Về hành trạng "thừa sai Ingatio" (I-Nê-Khu, Y-Nê-Khu, I-Nê-Xu):
Các Dòng Đaminh, Dòng Phan sinh Bồ Đào Nha, Dòng Tên, Dòng Phan sinh Tây Ban Nha là những Dòng có liên quan trực tiếp đến việc truyền giáo ở Á Đông từ thế kỷ XVI. Trong số các Dòng nầy có những thừa sai có tên gọi Ingatio. Chẳng hạn, Biên niên sử của Tỉnh dòng Phanxicô Tây Ban Nha và các tài liệu sử liên quan có nhắc đến thành viên của Tỉnh dòng là Linh mục Martin-Ignatio de Loyola, cháu thánh Ingatio de Loyola, trên chuyến hải trình khởi hành từ Macao đi Malacca vào ngày 31.12.1582, có ghé vào bờ biển Đại Việt nhưng không thể ở lâu vì phải đi Malacca. Trong thời gian ngắn lưu lại Đại Việt, cha ghi nhận người dân ở đây sẵn sàng đón nhận Tin Mừng và tha thiết xin được đón nhận Phép rửa… [31] Tuy nhiên, hành trạng của "thừa sai Ingatio" có liên quan đến sự kiện năm 1533 mà Tây Dương Gia tô Bí Lục và Khâm Định Việt Sử nói đến, hiện chưa được tìm thấy trong các nguồn sử của các Dòng. Các tác giả viết sau này cũng chỉ căn cứ vào Khâm Định Việt Sử để nói về mốc điểm Kitô giáo được du nhập vào Việt Nam.

3.3. Về mốc điểm năm 1533:
Căn cứ vào các sự kiện trong Tây Dương Gia tô Bí Lục như:
Tây Dương Gia Tô Bí Lục viết: “Nước ta về thời Hậu Lê đời vua Trang Tông Dụ hoàng đế, năm Quý Tị niên hiệu Nguyên Hòa thứ I (1533), giặc Tây sai giám mục khâm mạng là Ingatiô lẻn vào lén lút truyền đạo ở làng Ninh Cường, huyện Nam Chân”. Thực ra năm 1533, Nguyễn Kim, một cựu võ tướng của nhà Lê không thần phục nhà Mạc, đã đưa Lê Ninh lên ngôi trên đất Ai Lao (Lào), tức là vua Lê Trang Tông, niên hiệu là Nguyên Hòa.[32] Lúc bấy giờ vua Lê Trang Tông ở bên đất Lào, toàn bộ đất Đại Việt thuộc quyền cai trị của nhà Mạc, cụ thể là thời Thái-tông Văn hoàng đế Mạc Đăng Doanh, năm Đại-chính thứ 4. Tuy nhiên tác giả không đề niên hiệu Đại Chính của vua Mạc mà đề niên hiệu Nguyên Hòa của vua Lê.

Với những chứng từ nêu trên cho thấy tác giả Tây Dương Gia Tô Bí Lục là những nho sĩ tôn Lê, chịu ảnh hưởng Nho giáo rất sâu đậm.[33] Tác giả Tây Dương Gia Tô Bí Lục chọn năm Quý Tỵ 1533, mở đầu thời Lê Trung Hưng (Hậu Lê), để đưa một nhân vật ngoại quốc mà lịch sử không chứng minh được và gán cho việc lén lút vào truyền giáo ở nước ta giữa lúc mà hai họ Lê - Mạc đang tranh giành với nhau, trong nước nhiều việc, không ai rỗi mà soát xét những việc nhỏ nhặt.[34]

3.4. Về những địa danh Nam Chân, Quần Anh, Trà Lũ, Ninh Cường
Tác giả Tây Dương Gia Tô Bí Lục đã viết: Nam Chân là nơi phong tục cổ xưa thô lậu, nên đến đó trước. Ingatiô sang đến nước ta bèn lẻ vào cư ngụ ở các làng Quần Anh, Trà Lũ, Ninh Cường, đến đâu đều cho tiền, phát thuốc, khiến cho những kẻ ngu khờ phải mang ơn mà chịu nghe giảng đạo. Từ đó đạo Gia Tô mới bắt đầu lan đến nước ta”. Thời điểm khởi viết Tây dương Gia Tô Bí Lục (1794), lúc bấy giờ những địa danh mà Tây dương Gia Tô Bí Lục vừa kể trên là vùng đất Công giáo rất sầm uất, thuộc Giáo phận Đông Đàng Ngoài, nay thuộc Giáo phận Bùi Chu. Phải chăng tác giả Tây Dương Gia Tô Bí Lục mượn những địa danh nầy để ngầm nói các tín hữu Công giáo là những kẻ ngu khờ, phong tục cổ xưa thô lậu?

3.5. Nội dung Tây Dương Gia Tô Bí Lục là sự bịa đặt, xuyên tạc b ổi về nhân thân Chúa Giêsu, về giáo lý, về việc thực hành đạo… Một Đấng sáng lập đạo, một giáo lý của đạo như Gia Tô Bí Lục trình bày làm sao có thể tồn tại, làm sao có thể có số tín đồ đông đảo gồm những khoa học gia, những nhà trí thức từ bao đời nay trên toàn thế giới? Cách riêng những trí thức Kitô giáo có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển xã hội và nền văn hóa nước nhà, như phát biểu của PGS. TS. Nguyễn Quang Hưng trong cuộc Hội thảo Quốc tế được tổ chức tại Hà Nội ngày 7-8.12.2017 với đề tài Các Nhà Tư Tưởng Kitô Giáo Ở Việt Nam và Khu Vực: Một số Nghiên cứu và So sánh: “Để có được những đóng góp to lớn của Ki tô giáo đối với văn hóa các nước trong khu vực, trước hết chúng ta phải kể tới đóng góp vô cùng to lớn của những con người, những nhân vật tiêu biểu trong tầng lớp trí thức Ki tô giáo. Thửa đầu là những thừa sai châu Âu, từ Fransesco de Pina, Alexandre de Rhodes tới L. Cadière, mỗi người một lĩnh vực đều để lại những dấu ấn trong sự phát triển xã hội và văn hóa Việt Nam. Dân tộc Việt Nam không thể quên những người châu Âu đã cống hiến cả cuộc đời mình vì sự phát triển văn hóa xứ sở này như L. Cadière (1869-1955), người được coi là một trong những cha đẻ ngành dân tộc học và tôn giáo học ở Việt Nam, Alexander Yersin (1863-1943), bác sĩ Y khoa, nhà vi khuẩn học,… Ở tầm khu vực phải kể tới Francis Xavier (1506-1552), Matteo Ricci (1552-1610) và nhiều tên tuổi khác có công lớn trong việc mang ánh sáng Phúc âm cũng như đóng góp đáng kể về phương diện văn hóa của các nước trong khu vực. Càng về sau, vai trò của các nhà trí thức Ki tô giáo bản địa càng gia tăng, như ở Việt Nam phải kể tới tên tuổi của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch đóng vai trò trụ cột đối với trào lưu tư tưởng cải cách nửa sau thế kỷ XIX, Paulus Huỳnh Tịnh Của, người khởi đầu ngành báo chí ở Việt Nam, Petrus Trương Vĩnh Ký, nhà khoa học lớn, vị sứ giả giao lưu văn hóa Việt Nam và phương Tây, Nguyễn Văn Vĩnh, người có công lớn trong việc truyền bá chữ quốc ngữ, vv… Thêm vào đó cũng phải kể tới các nhà trí thức Tin Lành, tuy được du nhập vào Việt Nam muộn hơn, chiếm một tỷ lệ dân số khiêm tốn hơn nhiều so với người anh em Công giáo, nhưng không vì thế mà không có những đóng góp đáng kể đối với văn hóa Việt Nam hiện đại. Tất cả họ có những cống hiến to lớn trong việc tạo ra tầng lớp trí thức mới trong xã hội Việt Nam chịu ảnh hưởng của nền giáo dục phương Tây bên cạnh tầng lớp Nho học truyền thống”.[35]

- Bốn tác giả của Tây Dương Gia Tô Bí Lục không rõ ràng, không có nhân thân, lại còn có sự đóng góp của những ngòi bút khuyết danh. Một tác phẩm như vậy, có giá trị gì không?

- Tác giả Tây Dương Gia tô Bí Lục tạo ra nhân vật Ingatiô vào thời Chúa Giêsu ở Thế kỷ thứ I và bịa đặt hoang đường câu chuyện khi viết: “Một hôm con chúa Trời đến làng SaNa kê bục giảng đạo, lời lẽ lưu loát. Dân làng trông tướng mạo Jêsu, ai cũng cho là lạ, những người có học thức trong làng cũng đến nhìn lén xem y là người thế nào. Lúc ấy Jêsu đang thao thao thuyết giáo xưng tao xưng mày với dân làng, nhiều lần nêu tên những người tài giỏi các nơi mà chê bai, cho là còn kém mình. Bốn mươi năm trước, ở làng SaNa có Ingatiô và 8 người khác có công đức, được dân làng lập miếu thờ phụng. Mấy người có học nhân đó hỏi Jêsu: “Thầy có biết tiên thánh làng chúng tôi là Ingatô không?” Jêsu đáp: “Các ngươi chẳng hiểu ta chút nào! Nay ta bảo các ngươi: Từ khi chưa có Ingatiô thì đã có ta rồi, sao ta lại chẳng biết?” Nghe Jêsu trả lời như vậy, mấy người kia bừng giận mắng rằng: “Gã yêu tà điên rồ kia, người mới ba mươi tuổi, sao dám bảo là sinh trước Ingatiô của chúng ta?” Nói đoạn bèn gióng trống hô người vây bắt. Thầy trò Jêsu tháo thân bỏ chạy tán loạn. Dân chúng nhặt gạch đá tới tấp ném theo”.[36] Đây chỉ là một trích đoạn nhỏ của toàn bộ quyển sách toàn những chuyện bịa đặt hoang đường.

- Những nhân vật và những sự kiện mà Tây Dương Gia Tô bí lục viết trong tác phẩm về các Giáo Hoàng, Giám mục và Linh mục, không thể tìm thấy trong lịch sử Giáo hội. Chẳng hạn, Dòng Tên được Thánh Ignatio sáng lập và được Đức Giáo Hoàng Phaolô III phê chuẩn vào năm 1540, vậy mà Tây Dương Gia Tô Bí Lục viết: Nước ta về thời Hậu Lê đời vua Trang Tông Dụ hoàng đế, năm Quý Tị niên hiệu Nguyên Hòa thứ I (1533)… Ingatiô sang đến nước ta bèn lẻn vào cư ngụ ở các làng Quần Anh, Trà Lũ, Ninh Cường, đến đâu đều cho tiền, phát thuốc, khiến cho những kẻ ngu khờ phải mang ơn mà chịu nghe giảng đạo. Từ đó đạo Gia Tô mới bắt đầu lan đến nước ta. Về sau môn đồ của Ingatiô đều được phong làm giám mục, xin được lấy tên thánh của thầy làm tên của dòng đạo. Nhưng Ingatiô khiêm tốn không dám nghe theo, chỉ lấy tên Jêsu làm tên gọi của dòng” (Quyển IX).

Năm 1933, Việt Nam mới có Giám mục người Việt tiên khởi là Giám mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng, vậy mà Tây Dương Gia Tô Bí Lục đã cho Việt Nam có các Giám mục người Việt Nam cai quản các giáo phận từ nhiều thế kỷ trước… Thật vậy, không thể kể hết ra đây những lỗ hổng kiến thức lịch sử và sự bịa đặt lịch sử của Tây Dương Gia Tô Bí Lục. Đã rõ, những câu chuyện, những sự kiện, những nhân vật trong lịch sử truyền giáo ở Việt Nam trong tác phẩm Tây Dương Gia Tô Bí Lục là do hoang tưởng bịa đặt, không một chút giá trị lịch sử.

4. KẾT LUẬN:
Vấn đề này, cho đến khi các nhà nghiên cứu tìm thấy những cứ liệu lịch sử xác đáng, khoa học chứ không phải tài liệu dã sử, thì với những sử liệu hiện có, nói được rằng I-nê-xu đã đến Đại Việt truyền giáo năm 1533 là một nhân vật và sự kiện dã sử chứ không phải nhân vật và sự kiện lịch sử được lưu truyền bởi chính sử của các tổ chức, các Dòng liên quan đến việc truyền giáo ở Á Đông từ thế kỷ XVI.

Với những gì đã nêu trên, xét về phương diện lịch sử, sự kiện và nhân vật mà Tây Dương Gia Tô Bí Lục và Khâm Định Việt Sử viết về mốc điểm truyền giáo ở Việt Nam là một vấn đề tồn nghi lịch sử, thậm chí là sự bịa đặt của Tây Dương Gia Tô Bí lục, không thể tin tưởng.

Đối với lịch sử truyền giáo, một lịch sử liên quan đến đức tin, lịch sử ấy không thể hư cấu, dã sử. Lịch sử ấy phải được viết nên từ những con người có thật, có nguồn gốc, hoạt động thật trong thời điểm lịch sử thật. Đức tin phải được dẫn dắt, được định hướng, được nuôi dưỡng bởi một nguồn gốc lịch sử có nền tảng vững chắc, khoa học, rõ ràng, nếu không như thế, những chân lý đức tin cũng sẽ được người khác đặt vấn đề phải chăng đó là sự ảo tưởng, mê muội? Thậm chí, một lịch sử truyền giáo hư cấu là một loại lịch sử xúc phạm đến đức tin.

Để chọn mốc điểm cho việc truyền giáo ở Việt Nam có tính khoa học, lịch sử rõ ràng, nói như thừa sai Linh mục Borri: “Trước khi các cha Dòng chúng tôi tới Đàng Trong, người Bồ quen đem theo từ Malacca và từ Macao một vài tuyên úy khi đến buôn bán ở xứ này, để dâng thánh lễ và làm các phép bí tích trong suốt thời gian họ làm việc thương mại, thường là ba hay bốn tháng liền. Cũng giống như trường hợp người Iphanho đem theo từ Manila. Nhưng vì các linh mục tới xứ đó không có nhiệm vụ nào khác ngoài việc phục vụ người Bồ, nên các ông không lo về ích lợi và tiến triển thiêng liêng của dân xứ này và không muốn vất vả học tiếng của họ, không chú tâm truyền ánh sáng Phúc âm cho họ… Chúng tôi chỉ biết là có một tu sĩ dòng Phanxicô ở Manila và một tu sĩ dòng Augustino khởi hành từ Macao tới Đàng Trong, được đích thực thúc đẩy bởi lòng ao ước muốn chinh phục các linh hồn nhưng không được thành công như ý muốn, vì gặp nhiều khó khăn lớn và khác nhau đã xẩy ra trên đường, họ đành trở về tay không. Thiên Chúa quan phòng đã an bài như vậy để dành việc gieo trồng ruộng vườn này cho công việc và lao khổ của các con cái thánh Inhaxu”. [37]

Thực vậy, các thừa sai Dòng Tên với sứ mệnh truyền giáo, có tổ chức, đã đến Đàng Trong ngày 18.01.1615 tại Cửa Hàn- Đà Nẵng,[38] đến Đàng Ngoài ngày 19.3.1627 tại Cửa Bạng – Thanh Hóa.[39] Từ đó, các thừa sai Dòng Tên đã đặt được nền móng cho việc Tòa thánh thiết lập hai địa phận Tông tòa ở Đại Việt (Việt Nam) vào ngày 09.09.1659.
 
[1] Bộ sách được khởi thảo từ năm 1856 theo lệnh vua Tự Đức. Sau 05 lần thẩm định, sách được khắc in và ban hành năm 1884
[2] Xem QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản dịch Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam,  Khoa học Xã hội –Hà Nội 1993, trang 689.
[3] Xem QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Viện sử học dịch, Giáo Dục - Hà Nội, 1998, trang 720.
[4] Cũng như Dã sử, sách của tư gia ở dân gian ghi chép, khác với sách của sử quan, nên gọi là Dã Lục. (theo chú thích số  03 của Viện Sử Học ở cuối trang 720, sđd.)
[5] Bộ sử này được khắc in toàn bộ và phát hành lần đầu tiên vào năm Chính Hòa thứ 18, triều vua Lê Hy Tông, tức là năm 1697.
[6] Xem DES PÈRES DE LA MÊME COMPAGNIE,  Voyages et travaux des missionnaires de la compagnie de Jésus, Charles Douniol, Paris 1858, trang 197-198.
[7] https://vi.wikipedia.org/wiki/Đại_Viet_sử_ký_toàn_thư
[8] Hiện nay có bản dịch của Nguyễn Huy Thức và Lê Văn Bảy, Nxb, Văn Hóa - Thông Tin, Hà Nội 2006. Hai tác giả dịch từ bản chữ Hán được lưu trũ tại Thư viện Khoa học Xã hội. Có thể đây là bản A.2703 được lưu trữ tại Thư viện Hán Nôm. Bản nầy không đề cập đến có giáo sĩ Y-Nê-Khu…
[9] Năm Giáp Dần – 1794, thuộc triều vua Cảnh Thịnh, Nhà Tây Sơn, tuy nhiên không đề triều Cảnh Thịnh mà đề “Thời Nhà Lê suy tàn).
[10] Xem Trương Vĩnh Ký, Cours D’Histoire Annamite, Imp. Du Gouvernement, Sài Gòn 1877, 1Édition, 2èr. Volume, trang 139, chú thích số (1). Tác phẩm của Trương Vĩnh Ký ra đời trước Khâm Định Việt Sử.  KĐVS được khởi thảo từ 1856, khắc in và ban hành năm 1884.
[11] Tác phẩm của Trương Vĩnh Ký ra đời trước Khâm Định Việt Sử.  KĐVS được khởi thảo từ 1856, khắc in và ban hành năm 1884.
 
[12] A.BONIFACY, Les Débuts Du Christianisme En Annam-  Des origines au 18è siècle, Hà Nội 1930, trang 04
[13] Lời tựa trong BAVH. Juillet-Déc 1931, trang 279-280.
[14] LM. BÙI ĐỨC SINH, O.P., M.A.,  Giáo Hội Công Giáo ở Việt Nam, Calgary-Canada, 2002, Q.I, trang  54-56.
[15] Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 107, Tháng 2/1968, trang 56-62.
[16] Tạp chí Xưa&Nay, Số 530, tháng 4 năm 2021, trang 8-9.
[17] Tạp chí Xưa&Nay, Sđd, trang 9, cột 2.
[18] Xét về dấu vết Tin Mừng trên đất Đại Việt, Đỗ Quang Chính, sđd, 10, nhắc tới thánh giá được Duarte Coelho khắc tại Cù Lao Chàm vào năm 1523.
[19] X. Nguyễn Khắc Thuần, Đại cương lịch sử văn hoá Việt Nam. Tập 4. Hà Nội 2012, 215-218.
[20] Để so sánh, chúng tôi sử dụng bản chữ Hán bộ KĐVTGCM tại trang điện tử lib.nomfoundation.org, bản chữ Hán cuốn TDGTBL kí hiệu VHv.2137, hiện được lưu giữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm.  
[21] Cần biết rằng hai bản chữ Hán ghi phiên âm tên một nhân vật người châu Âu không mấy nổi tiếng mà cách ghi giống hệt nhau là điều rất hiếm gặp.
[22] Bản dịch của Ngô Đức Thọ dịch đốc chính thành giám mục khâm mạng; xin xem trang điện tử http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10340&rb=08.
[23] Chữ bản KĐVTGCM ghi , bản TDGTBL ghi là .
[24] Lời giới thiệu cuốn TDGTBL tại trang điện tử http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10257&rb=08, truy cập ngày 13-5-2018, nhắc tới những tài liệu nói tới việc KĐVTGCM có thể lấy nguồn từ TDGTBL.
[25] Dẫn theo trang điện tử http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10317&rb=0303, truy cập ngày 13-5-2018.
[26] Cuối lời tựa sách : Viết vào tháng Hoa đào [tức tháng Hai] năm Giáp Dần, thời nhà Lê suy tàn. Năm Giáp Dần thời Lê suy tàn là năm 1794.
[27] Tây Dương Gia Tô Bí Lục (Quyển IX) - talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10257&rb=08.
[28] QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN, Sđd,  trang 2.
[29] Tây Dương Gia Tô Bí Lục (Quyển IX) - talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10257&rb=08.
[30] Tây Dương Gia Tô Bí Lục (Lời giới thiệu) - talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10257&rb=08.
[31] Xem GONZALEZ  DE  MENDOZA,  Histoire du grand royaume de la Chine, situé aux Indes orientales…, Paris 1589, trang 304b.
[32] Xem QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Viện sử học dịch, Giáo Dục - Hà Nội, 1998, trang 631.
[33] Xem thêm Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 107, Tháng 2/1968, trang 58-59.
[34] Xem Tây Dương Gia Tô Bí Lục (Quyển IX)  - talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10257&rb=08.
[35] Xem  http://www.trungtamtongiao.vn/pgs-ts-nguyen-quang-hung-cac-nha-tu-tuong-kito-giao-o-vietnam-va-khu-vuc-trong-boi-canh-xa-hoi-a-dong/699
[36] Tây Dương Gia Tô Bí Lục  (Quyển II) - talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10257&rb=08.
[37] Christoforo Borri, Relatione della nouva Missione delli PP. della Compagnia di Giesu al Regno della Cocincina, Roma 1631, trang 103-105.
[38] Xem Alexandre de Rhodes, Divers Voyages et Missions…, Paris 1653, trang 68.
[39] Xem Alexandre de Rhodes, Histore Du Royaume De Tunquin…, Lion 1651, trang 128

Tác giả: Lm. Gioan Võ Đình Đệ

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây