Ngày thứ nhất – 23/9/2025: Giảng khai mạc Thường huấn Linh mục năm 2025 – Những định hướng trong cuộc cải tổ mục vụ giáo xứ
Nguyen Paul, Gm. Matthêô Nguyễn Văn Khôi
2025-09-23T22:51:28-04:00
2025-09-23T22:51:28-04:00
https://gpquinhon.org/thuong-huan/nhung-dinh-huong-trong-cuoc-cai-to-muc-vu-giao-xu-7208.html
https://gpquinhon.org/uploads/news/2025/dcmattheo.jpg
Giáo phận Qui Nhơn
https://gpquinhon.org/uploads/banner-980x120_1.jpg
Thứ ba - 23/09/2025 05:49

Ngày 29 tháng 6 năm 2020, Bộ giáo sĩ đã ban hành một Huấn thị với tựa đề: “Cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ để phục vụ sứ vụ Loan báo Tin Mừng”. Huấn thị được Đức Giáo hoàng Phanxicô phê chuẩn ngày 27 tháng 6 năm 2020, và mang chữ ký của Đức Hồng y Beniamino Stella, Tổng trưởng Bộ Giáo sĩ, cùng với hai vị Tổng thư ký, là Đức Tổng giám mục Joel Mercier và Đức Tổng giám mục Jorge Carlos Patrón Wong (đặc trách về các chủng viện), và Đức ông Phó Tổng thư ký Andrea Ripa.
Trong phần dẫn nhập, Huấn thị viết: “Suy tư Giáo hội học của Công đồng Vaticanô II, cùng với những chuyển biến xã hội và văn hóa trong những thập niên vừa qua, dẫn đến quyết định cho các Hội Thánh địa phương phải tổ chức lại việc ủy thác chăm sóc mục vụ tại cộng đoàn giáo xứ. Điều này có thể phát sinh những kinh nghiệm mới, nhờ việc đề cao chiều kích hiệp thông và, dưới sự hướng dẫn của các mục tử, thực hiện sự kết hợp hài hòa các đặc sủng và ơn gọi nhằm phục vụ công cuộc Loan báo Tin Mừng, đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi của việc Phúc Âm hóa ngày nay”.[1]
Qua lời dẫn nhập này chúng ta thấy chủ đề chính của Huấn thị là việc cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ để thực hiện sứ vụ Loan báo Tin Mừng trong thời đại hôm nay. Việc cải tổ này không phải là điều hoàn toàn mới mẻ, nhưng bắt nguồn từ suy tư Giáo Hội học của Công đồng Vaticanô II. Tuy nhiên, cuộc cải tổ này mang một sắc thái mới phát sinh từ những chuyển biến xã hội và văn hóa trong những thập niên vừa qua. Đặc biệt, Huấn thị ra đời trong triều đại của Đức Giáo hoàng Phanxicô, nên chắc chắn chịu ảnh hưởng của tầm nhìn và đường hướng mục vụ của ngài. Tầm nhìn và đường hướng mục vụ của ngài được nhìn thấy xuyên suốt các giai đoạn của Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI với đỉnh cao là Văn kiện chung kết ngày 26 tháng 10 năm 2024 được ngài ký ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2024. Vì vậy, phần trình bày dưới đây cũng được đặt dưới ánh sáng của Văn kiện chung kết này.
Sau đây chúng ta hãy thử khám phá những định hướng tiềm tàng trong công cuộc cải tổ mục vụ giáo xứ mà Huấn thị đã vạch ra. Tuy nhiên, vì các định hướng đều bắt nguồn từ một điểm xuất phát hay nền tảng chung. Do đó, việc đầu tiên và rất quan trọng là chúng ta phải khám phá nền tảng của cuộc cải tổ này.
Có thể nói, nền tảng của công cuộc cải tổ mục vụ giáo xứ mà Huấn thị đề cập đến là tầm nhìn mang tính Giáo Hội học của Đức Phanxicô. Đó là một Giáo Hội hiệp hành: hiệp thông, tham gia, sứ vụ. Có thể nhiều người sẽ thắc mắc rằng ý niệm về một Giáo Hội hiệp hành như thế chỉ xuất hiện từ Thượng hội đồng Giám mục lần thứ XVI, trải qua các giai đoạn từ tháng 10 năm 2021 đến tháng 10 năm 2024, trong khi đó Huấn thị này được Bộ Giáo sĩ ban hành ngày 29 tháng 6 năm 2020.
Thực ra, ý tưởng về một Giáo Hội hiệp hành đã bắt nguồn từ thời Chúa Giêsu, khi Người và các môn đệ cùng đi với nhau xuyên qua mọi nẻo đường, gặp gỡ tất cả mọi người không phân biệt, lắng nghe tiếng nói của mọi tầng lớp xã hội. Khi sai các Tông đồ và các môn đệ đi thực tập truyền giáo, Người cũng sai họ đi từng hai người một. Trước khi về trời Người cũng sai các Tông đồ đi khắp tứ phương thiên hạ để loan báo Tin Mừng. Từ đó Giáo Hội đã thực sự mang tính hiệp hành, vừa mang tính đồng nghị khi cùng nhau góp ý xây dựng Giáo Hội, vừa mang tính lên đường khi cùng nhau đưa Tin Mừng đến với mọi dân tộc.
Tuy nhiên, khi Giáo Hội đã phát triển, có những thời kỳ Giáo Hội phần nào mất sức năng động vì nặng tính cơ cấu. Theo Công đồng Vaticanô II, Giáo Hội được Đức Kitô mời gọi cải tổ luôn mãi, một sự cải tổ mà Giáo Hội bao giờ cũng cần đến vì Giáo Hội cũng là một định chế trần gian.[2] Vì vậy, hình ảnh một Giáo Hội hiệp hành lại được đặt ra với Công đồng Vaticanô II và việc thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục. Mặc dù khái niệm rõ ràng về tính hiệp hành chưa được tìm thấy trong giáo huấn của Công đồng Vaticanô II, nhưng đó lại là trọng tâm của công cuộc canh tân mà Công đồng khởi xướng và cổ võ. Trong các bản văn Công đồng, từ “synodus” được dùng để chỉ Công đồng đang diễn ra và Công đồng đại kết được coi như biểu hiện cao nhất của tính hiệp hành của Giáo Hội, tiếp đến là các Thượng Hội đồng Giám mục, các Công đồng miền và các công nghị giáo tỉnh.
Theo cha Santiago Madrigal, SJ, “những kinh nghiệm công nghị này, với nhiều mức độ và phạm vi khác nhau (thường lệ, ngoại lệ, đặc biệt, châu lục và giáo phận), đã mở ra con đường dẫn đến tầm nhìn về Hội Thánh theo một nguyên tắc căn bản mang tính hiệp hành. Do đó, trước ngưỡng cửa của thiên niên kỷ thứ ba, tính hiệp hành đã trở thành một phạm trù then chốt khi Giáo Hội học hậu Công đồng xuất hiện”.[3]
Tuy nhiên theo nhà thần học Eloy Bueno, “trong lãnh vực Giáo Hội, tính hiệp hành là một phạm trù giả định đã có, nhưng không thể phủ nhận nó vẫn là một khái niệm và thuật ngữ mơ hồ. Đức Phanxicô đã đưa ra các tiêu chí để phân định khái niệm này và vạch ra một con đường hướng về phía trước”.[4]
Với Đức Phanxicô, một Giáo Hội hiệp hành chẳng những là một ý tưởng, một quan niệm thần học, mà còn là một tầm nhìn định hướng cho toàn bộ chương trình mục vụ xuyên suốt triều đại Giáo hoàng của ngài. Thực vậy, ngay trong bài diễn văn đầu tiên tại ban công Đền thờ Thánh Phêrô, trước mặt toàn thể dân chúng đang tụ họp tại quảng trường Thánh Phêrô, sau khi ngài được mật viện Hồng y bầu làm Giáo hoàng, chiều ngày 13 tháng 3 năm 2013, Đức Phanxicô đã nói: “Và giờ đây chúng ta bắt đầu hành trình này: Giám mục Rôma và dân chúng. Hành trình của Hội Thánh Rôma hướng dẫn điều khiển toàn thể Hội Thánh trong đức ái. Một hành trình của tình huynh đệ, yêu thương và tin tưởng giữa chúng ta”.
Chỉ trong một đoạn văn ngắn ngủi, từ “hành trình” đã được nhắc đến 3 lần. Theo Ủy ban Thần học quốc tế, đằng sau khái niệm này là hạn từ Hy-lạp Synodos chỉ con đường mà các thành viên của Dân Chúa cùng đi. Đó là con đường của Giáo Hội hay chính Giáo Hội, như lời Thánh Gioan Kim Khẩu đã nói: “Giáo Hội là tên của việc đi cùng nhau”. Đây cũng là xác tín của Đức Phanxicô: “Con đường hiệp hành chính là con đường Thiên Chúa mong đợi nơi Hội Thánh của thiên niên kỷ thứ ba”.[5]
Con đường hiệp hành của Đức Phanxicô được xác định bởi cột mốc quan trọng là Tông huấn Evangelii Gaudium (24/11/2013). Đây là văn kiện quan trọng đầu tiên của triều đại Giáo hoàng của ngài và nó sẽ có một tầm ảnh hưởng mang tính định hướng cho các văn kiện tiếp theo của ngài, mà đỉnh cao là Văn kiện chung kết của Thượng hội đồng Giám mục lần thứ XVI được ngài phê chuẩn và truyền công bố ngày 26 tháng 10 năm 2024, với chủ đề: “Hướng tới một Hội Thánh hiệp hành: Hiệp thông, Tham gia, Sứ vụ.
Trong Tông huấn Evangelii Gaudium, Đức Phanxicô trình bày nhãn quan của ngài về một Hội Thánh hiệp hành bằng hình ảnh một Hội Thánh đi ra: “Hội Thánh ‘đi ra’ là một cộng đoàn các môn đệ truyền giáo đi bước trước, dấn thân và nâng đỡ, sinh hoa trái và vui mừng. Một cộng đoàn loan báo Tin Mừng biết rằng Chúa đã có sáng kiến, Người đã yêu chúng ta trước (x. Ga 4,19), và vì thế chúng ta có thể dấn bước, mạnh dạn có sáng kiến, đến với người khác, tìm kiếm những người sa ngã, đứng ở các ngả đường để đón mời những người bị gạt ra bên lề”.[6]
Đặc biệt, trong Tông huấn Evangelii Gaudium, có đoạn văn quyết định cho thấy thực tại của một Hội Thánh hiệp hành, của “những môn đệ truyền giáo”: “Nơi tất cả những người đã rửa tội, từ người đầu tiên cho đến người cuối cùng, sức mạnh thánh hóa của Chúa Thánh Thần luôn hoạt động và thúc đẩy chúng ta truyền giáo. Dân Thiên Chúa là Dân thánh nhờ sự xức dầu này của Chúa Thánh Thần, làm cho nó không thể sai lầm in credendo, nghĩa là không thể sai lầm trong đức tin, dù nó không thể tìm được những từ ngữ để cắt nghĩa đức tin ấy. Thánh Thần hướng dẫn Dân Chúa trong chân lý và dẫn Dân Chúa đến ơn cứu độ. Để chia sẻ tình thương nhiệm mầu của mình, Thiên Chúa ban cho toàn thể các tín hữu một cảm thức đức tin - sensus fidei - là khả năng giúp họ phân định rõ cái gì thực sự là của Thiên Chúa. Sự hiện diện của Thần Khí ban cho người Kitô hữu một sự đồng bản tính nào đó với các thực tại của Thiên Chúa, và một sự khôn ngoan giúp họ nắm bắt các thực tại ấy bằng trực giác, cả khi họ không có đủ phương tiện cần thiết để diễn tả nó một cách chính xác”.[7]
Rõ ràng Huấn thị mà chúng ta đang tìm hiểu đã chịu ảnh hưởng rất mạnh của nhãn quan về một Giáo Hội hiệp hành của Đức Phanxicô, cách riêng là Tông huấn Evangelii Gaudium. Bằng chứng là Huấn thị đã trích dẫn Evangelii Gaudium 19 lần, nhiều hơn bất kỳ một văn kiện nào khác. Tiếp đến, chính Đức Phanxicô đã tổ chức Thượng Hội đồng Giám mục thường kỳ lần thứ XVI và chính việc tổ chức Thượng Hội đồng cũng như những văn kiện của Thượng Hội đồng đã nhấn mạnh và làm sáng tỏ ý nghĩa của tính hiệp hành trong Giáo Hội.
Ý nghĩa và các chiều kích của tính hiệp hành ngày càng xuất hiện rõ ràng qua các văn kiện của Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI, nhất là Văn kiện chung kết. Trong văn kiện này các Nghị phụ đã cho thấy rằng các thuật ngữ “tính hiệp hành” và “có tính hiệp hành” được rút ra từ những thực hành cổ xưa và thường xuyên của Giáo Hội liên quan đến việc tập hợp tại một công nghị. Đó là việc tập họp lại với nhau để đối thoại, phân định và quyết định. Trong quá trình diễn ra Thượng Hội đồng, ý nghĩa của tính đồng hành ngày càng trở nên rõ rệt hơn: đó là sự đồng hành của các Kitô hữu cùng với Đức Kitô và hướng về Vương quốc của Thiên Chúa trong sự gắn kết với toàn thể nhân loại. Tiến trình hiệp hành bao gồm việc quy tụ với nhau từ các cấp độ khác nhau của đời sống Giáo Hội: lắng nghe nhau, đối thoại, cùng nhau phân định, hình thành sự đồng thuận, đạt đến sự quyết định trong tinh thần đồng trách nhiệm. Tất cả được thực hiện dưới sự soi sáng và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Như vậy, hiệp hành là một chiều kích chính của Giáo Hội, là một con đường canh tân, cải tổ cơ cấu Giáo Hội và hướng về sứ vụ truyền giáo.[8]
Mặc dù Văn kiện chung kết của Thượng Hội đồng xuất hiện sau Huấn thị, tuy nhiên tính hiệp hành của Giáo Hội đã được đề cập đến trong các văn kiện của Giáo Hội và ảnh hưởng đến Huấn thị. Vì vậy, ngay trong phần nhập đề, Huấn thị viết: “Những hoàn cảnh được phác thảo trong Huấn thị này trình bày một cơ hội quý giá để hoán cải mục vụ theo hướng truyền giáo. Các cộng đoàn giáo xứ sẽ tìm thấy trong tài liệu này lời mời gọi ra khỏi chính mình, khi đưa ra những phương thế cải tổ, cả về mặt cơ cấu, trong tinh thần hiệp thông và cộng tác, gặp gỡ và liên kết, thương xót và quan tâm đến công cuộc loan báo Tin Mừng”.[9] Đó là một cách diễn tả tính hiệp hành của Giáo Hội.
Và trong phần kết luận, Huấn thị đã viết: “Bởi thế, ngoài sự phối hợp có trách nhiệm các hoạt động và các tổ chức mục vụ có khả năng liên kết và hợp tác, việc chăm sóc mục vụ cùng nhau còn đòi hỏi mọi người đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy cùng cộng tác. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói: “Khi chúng ta nói đến “dân”, thì không được hiểu là các cấu trúc xã hội hay của Hội Thánh, nhưng là nói về toàn thể những người đang lữ hành, không với tính cách cá nhân, nhưng như là một cộng đoàn liên kết chặt chẽ mọi người với nhau và vì mọi người”.[10]
Sau khi xác định nền tảng của công cuộc cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ là nhãn quan thần học về một Giáo Hội hiệp hành: hiệp thông, tham gia, sứ vụ, giờ đây chúng ta hãy thử phác hiện những định hướng tiềm tàng của công cuộc cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ mà Huấn thị đã trình bày. Vai trò của định hướng không chỉ là xác định mục tiêu, mà còn cung cấp một lộ trình rõ ràng để đạt được mục tiêu, bao gồm lập kế hoạch và thực hiện các bước cần thiết để đạt được mục tiêu đó. Khả năng xác định và thực hiện định hướng không chỉ giúp nâng cao hiệu quả làm việc mà còn tạo ra sự tự tin và động lực cho người thực hiện.
Đây là điều đã được xác định ngay trong chủ đề của Huấn thị: “Cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ để phục vụ sứ vụ Loan báo Tin Mừng”. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói với các giám mục vùng Châu Đại dương: “Mọi sự canh tân của Hội Thánh phải lấy truyền giáo làm mục tiêu để tránh rơi vào nguy cơ của một Hội Thánh qui vào chính mình”.[11]
Truyền giáo hay sứ vụ là định hướng thứ ba trong quan niệm về một Hội Thánh hiệp hành: hiệp thông, tham gia, sứ vụ. Tuy được xếp vào thứ ba, nhưng thực ra đó là định hướng quan trọng nhất, vì nó được đồng hóa với chính mục tiêu của công cuộc cải tổ. Sứ vụ loan báo Tin Mừng không thể được coi như giai đoạn kết cục của công cuộc cải tổ, nhưng thực ra nó đã có ngay từ đầu và định hướng toàn bộ công cuộc cải tổ, vì vậy chúng ta có thể gọi nó là một định hướng và là một định hướng căn bản nhất. Đức Phanxicô gọi truyền giáo là kim chỉ nam để canh tân.[12]
Văn kiện chung kết của Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI cho thấy rằng tính hiệp hành tự nó không phải là mục đích, nhưng nhắm đến sứ vụ thiết yếu của Giáo Hội là loan báo Tin Mừng. Bằng cách trân trọng tất cả các đặc sủng và thừa tác vụ, tính hiệp hành cho phép Giáo Hội loan báo và làm chứng cho Tin Mừng. Tính hiệp hành và sứ vụ truyền giáo có mối tương quan mật thiết với nhau: sứ vụ soi sáng cho tính hiệp hành và tính hiệp hành thúc đẩy sứ vụ.[13]
Chính trong chiều hướng ấy Huấn thị viết: “Chúng ta cần phải xác định những viễn tượng giúp canh tân cơ cấu giáo xứ “truyền thống” theo định hướng truyền giáo. Đây là trọng tâm của việc hoán cải mục vụ hằng mong đợi, vốn cần phải đạt tới những việc như loan báo Lời Chúa, đời sống bí tích và việc làm chứng bác ái, nói khác đi, là những lãnh vực thiết yếu mà giáo xứ phát triển và thích nghi để phù hợp với Mầu nhiệm mà mình tin”.[14]
Định hướng truyền giáo trong cuộc cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ mà Huấn thị nêu lên thực ra đã bắt đầu từ lịch sử hình thành và phát triển của Giáo Hội phổ quát và được nhấn mạnh trong giáo huấn của Công đồng Vaticanô II. Truyền giáo là định hướng chính của Giáo Hội nói chung, bởi vì bản chất của Giáo Hội là truyền giáo và hoạt động truyền giáo của Giáo Hội bắt nguồn từ chính bản tính của Giáo Hội.[15] Nhận lãnh sứ mệnh của Chúa Giêsu và dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, các Tông đồ đã ra đi truyền giáo. Từ đó Giáo Hội hình thành và ngày càng lan rộng khắp mọi miền thế giới. Công cuộc truyền giáo cũng được gắn liền với sự phât triển của Giáo Hội xét như là Thân Mình mầu nhiệm của Đức Kitô theo cái nhìn thần học của Thánh Phaolô. Vì vậy Công đồng đã dạy: “Tất cả các tín hữu vì là chi thể Chúa Kitô hằng sống, được tháp nhập vào Người và nên giống Người nhờ bí tích Rửa tội, Thêm sức và Thánh Thể, nên họ có bổn phận phải cộng tác vào việc phát triển và bành trướng Thân Thể Người, để Thân Thể này được sung mãn càng sớm càng hay”.[16]
Hơn nữa, là Thân Thể sống động của Đức Kitô, Giáo Hội không thể được quan niệm như một cơ cấu tổ chức tĩnh, nhưng là một sự phát triển không ngừng nhằm lôi cuốn mọi người về với Đức Kitô, nhờ đó Thân Mình của Đức Kitô ngày càng lớn lên. Vì thế Giáo Hội không dừng lại nơi những miền đất đã được khai phá bằng sức mạnh của Tin Mừng, nhưng luôn lên đường đi đến những miền đất mới trên khắp tứ phương thiên hạ, như lệnh truyền của Đức Giêsu trước khi về trời.
Trên lộ trình đi ra của Giáo Hội hoàn vũ, các Giáo Hội địa phương đã từng bước hình thành và phát triển, đó là các giáo phận dưới quyền cai quản của giám mục. Công đồng Vaticanô II gọi các giáo phận là các Giáo Hội địa phương để chỉ những cộng đoàn khác nhau của Giáo Hội duy nhất và phổ quát. Nguồn gốc của các giáo phận hay các Giáo Hội địa phương là những cộng đoàn tín hữu được qui tụ do lời rao giảng của các Tông đồ và các Giáo Hội địa phương này được thiết lập với nhiệm vụ tiếp tục công cuộc truyền giáo của Giáo Hội phổ quát.[17] Vì vậy, theo giáo huấn của Công đồng Vaticanô II, cộng đoàn Giáo Hội địa phương không được chỉ lưu tâm chăm sóc các tín hữu của mình, mà còn phải có nhiệt tâm truyền giáo vượt khỏi biên giới địa phương để bao gồm cả Giáo Hội phổ quát.[18]
Cũng như Giáo Hội phổ quát bao gồm các Giáo Hội địa phương là các giáo phận, thì các giáo phận cũng bao gồm các cộng đoàn nhỏ là các giáo xứ. Mặc dù nhỏ, nhưng các cộng đoàn giáo xứ cũng mang tính truyền giáo như Giáo Hội phổ quát. Mỗi giáo xứ được hình thành từ công cuộc truyền giáo của giáo phận và đến lượt mình mỗi giáo xứ cũng phải liên tục canh tân để tham gia vào công cuộc truyền giáo của Giáo Hội phổ quát và của Giáo Hội địa phương. Chính Công đồng Vaticanô II đã khẳng định điều này: “Vì toàn thể Giáo Hội là truyền giáo và vì công việc rao giảng Phúc Âm là nhiệm vụ căn bản của Dân Chúa, nên Thánh Công đồng mời gọi mọi người canh tân tự thâm tâm mình, để khi đã tích cực ý thức trách nhiệm riêng của mình trong việc truyền bá Phúc Âm, mọi người góp phần vào công cuộc truyền giáo nơi muôn dân”.[19]
Công đồng không những kêu gọi mọi thành phần Dân Chúa tham gia vào công cuộc truyền giáo của Giáo Hội, mà còn khẳng định rằng: “Giáo xứ là một hình thức tông đồ cộng đồng kiểu mẫu, vì đó là nơi qui tụ đủ mọi hạng người thành một cộng đoàn và đem họ vào tinh thần đại đồng của Giáo Hội. Giáo dân nên tập thói quen cộng tác chặt chẽ với các linh mục của mình để hoạt động trong giáo xứ”.[20]
Tiếp nối giáo huấn của Công đồng Vaticanô II, định hướng căn bản của Giáo Hội là truyền giáo đã được Đức Phanxicô mô tả bằng hình ảnh “một Hội Thánh đi ra” trong Tông huấn Evangelii Gaudium.[21] Đặc biệt, trong Evangelii Gaudium số 20 ngài viết: “Vào thời chúng ta, lệnh truyền của Chúa Giêsu: ‘Anh em hãy đi thu thập môn đệ’ đang vang dội trong những khung cảnh đổi thay và đầy thách thức mới cho sứ mạng loan báo Tin Mừng của Hội Thánh, và tất cả chúng ta được kêu gọi tham gia vào cuộc ‘đi ra’ truyền giáo mới này. Mỗi Kitô hữu và mỗi cộng đoàn phải nhận ra con đường mà Chúa chỉ cho, nhưng tất cả chúng ta phải vâng theo tiếng gọi của Người là ra đi từ vùng đất tiện nghi của mình để đến với mọi vùng ‘ngoại vi’ đang cần ánh sáng Tin Mừng”.
Tiếp đến, ở số 28, Đức Phanxicô đã viết về giáo xứ như sau: “Giáo xứ không phải là một cơ chế lỗi thời; lý do chính là nó có tính linh động cao, nó có thể tiếp thu những tình huống khá khác biệt tuỳ theo sự cởi mở và óc sáng tạo truyền giáo của người mục tử và của cộng đoàn. Chắc chắn giáo xứ không phải là cơ chế duy nhất loan báo Tin Mừng, nhưng nếu nó tỏ ra có khả năng tự canh tân và thích nghi không ngừng, nó vẫn tiếp tục là ‘Hội Thánh sống giữa các gia đình của các con trai con gái mình’. Điều này có nghĩa là giáo xứ thực sự tiếp xúc với các gia đình và các cuộc đời của những con người, và không trở thành một cơ chế cách ly với con người hay một nhóm khép kín gồm một ít người được tuyển chọn. Giáo xứ là sự hiện diện của Hội Thánh tại một địa phương nhất định, một môi trường để nghe Lời Chúa, để tăng trưởng trong đời sống Kitô hữu, để đối thoại, rao giảng, làm việc bác ái, thờ phượng và mừng lễ. Trong mọi hoạt động của mình, giáo xứ cổ vũ và huấn luyện các thành viên của mình để trở thành những người loan báo Tin Mừng”.[22]
Mỗi giáo xứ là một cộng đoàn tín hữu sống giữa nhiều người chưa nhận biết Chúa. Đó là vùng ngoại vi mà Đức Thánh Cha có ý nói đến. Số người chưa nhận biết Chúa càng nhiều thì vùng ngoại vi càng lớn. Đối với những giáo xứ toàn tòng công giáo, vùng ngoại vi là những người tín hữu không sống đạo, không hiệp thông với cộng đoàn, những người tội lỗi và những người bị bỏ rơi, bị loại trừ. “Thời nay đặc biệt, có khi có nhiều người bị loại ra bên lề xã hội và cô đơn, cộng đoàn giáo xứ được mời gọi trở nên dấu chỉ sống động của sự gần gũi của Chúa Kitô qua các mối dây liên kết huynh đệ, hằng quan tâm đến những hình thức nghèo khổ mới”.[23]
Vì vậy, đi ra truyền giáo không những là bản chất mà còn là sự sống còn của một cộng đoàn giáo xứ. Nói cách khác, nếu cộng đoàn giáo xứ không tìm cách phát triển đời sống đức tin của các tín hữu, không tìm mọi cách để gia tăng số tín hữu hay để lôi kéo những người đang rời bỏ đức tin để họ trở về với Giáo Hội, thì cộng đoàn ấy có nguy cơ bị tan rã, lụi tàn hay bị thế gian bóp nghẹt như hạt giống rơi vào bụi gai.
Chính trong chiều hướng đi ra của Đức Phanxicô, Huấn thị của Bộ giáo sĩ về việc cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ là nhằm để phục vụ sứ vụ loan báo Tin Mừng. Để xác định định hướng truyền giáo của việc cải tổ này, trước hết Huấn thị đã cho thấy định hướng này đã hiện diện trong quá trình lịch sử hình thành và phát triển của giáo xứ:
“Từ lúc khai sinh, giáo xứ được hình dung như đáp ứng cho một nhu cầu mục vụ rõ rệt, cụ thể là đem Tin Mừng đến với dân chúng bằng việc thông truyền đức tin và cử hành các Bí tích. Nguyên nghĩa của từ “giáo xứ” cho thấy rõ ý nghĩa của cơ chế này: giáo xứ là một ngôi nhà ở giữa các ngôi nhà và là lời giải đáp cụ thể mầu nhiệm Nhập Thể của Đức Giêsu Kitô, Đấng đang sống và hoạt động giữa cộng đoàn. Vì thế, nét đặc trưng cụ thể của giáo xứ là một nơi thờ phượng, một dấu chỉ của việc Chúa Phục Sinh luôn hiện diện giữa Dân Người”.[24]
Trải qua quá trình hình thành và phát triển, mỗi giáo xữ đã trở thành một cộng đoàn ổn định với cơ cấu tổ chức khá hoàn hảo. Tuy nhiên có một cám dỗ là từ đây công việc chính của giáo xứ chỉ nhắm vào việc mục vụ, tức là việc chăm sóc các tin hữu, mà quên mất hay không còn quan tâm đến định hướng truyền giáo vốn là bản chất và là lý do tồn tại của giáo xứ. Vì vậy, Huấn thị đã trích dẫn các giáo huấn của Công đồng và của các vị giáo hoàng gần đây để khẳng định định hướng truyền giáo của giáo xứ, Huấn thị viết:
“Các Nghị phụ Công đồng đã tiên liệu trước khi viết: ‘việc chăm sóc các linh hồn cần phải luôn thấm nhuần tinh thần truyền giáo’.[25] Tiếp nối giáo huấn này, Thánh Gioan Phaolô II chỉ rõ rằng: ‘Mặc dù giáo xứ phải được xây dựng hoàn hảo hơn và được hội nhập vào rất nhiều hình thức khác nhau, giáo xứ vẫn là một tổ chức thiết yếu quan trọng hàng đầu trong cơ cấu hữu hình của Hội Thánh’, nhờ đó ‘việc Loan báo Tin Mừng trở thành là trục trung tâm của mọi hoạt động mục vụ, đòi hỏi của việc Loan báo Tin Mừng là cơ bản, quan trọng nhất, và ưu tiên’.[26] Rồi đến Đức Bênêđictô XVI, ngài đã dạy rằng: ‘Giáo xứ là ngọn hải đăng tỏa chiếu ánh sáng đức tin và như thế đáp ứng những khát vọng sâu xa và chân thực nhất của tâm hồn con người, đem lại ý nghĩa và hy vọng cho đời sống cá nhân và gia đình’.[27] Sau cùng, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở ‘giáo xứ phải khích lệ và đào tạo để các thành viên trở nên người loan báo Tin Mừng’[28]”.[29]
Trên đây, khi đề cập đến những vùng ngoại vi mà mỗi người tín hữu cần phải đến trong định hướng đi ra truyền giáo của mình, chúng ta mới chỉ nói đến những vùng ngoại vi trong lãnh thổ của một giáo xứ. Tuy nhiên trong Huấn thị này chúng ta thấy khái niệm về vùng ngoại vi được hiểu một cách rộng rãi hơn: thay vì là một lãnh thổ mang tính địa lý, thì đó là một lãnh thổ mang tính hiện sinh:
“Mặc dù rất dấn thân quảng đại, mô hình giáo xứ hiện thời không còn đáp ứng được những kỳ vọng của các tín hữu nữa, nhất là khi người ta xét thấy sự đa dạng của các loại cộng đoàn hiện hữu hôm nay.[30] Quả thực, một đặc điểm của giáo xứ là việc bám rễ tại trung tâm nơi dân chúng sống ngày này qua ngày khác. Tuy nhiên, lãnh thổ giáo xứ không chỉ là một không gian địa lý, mà còn là bối cảnh nơi đời sống con người được thể hiện qua các mối quan hệ, qua việc phục vụ lẫn nhau và qua truyền thống lâu đời. Chính trong ‘lãnh thổ hiện sinh’ này, mà Hội Thánh đang phải đối diện với những thách đố đang diễn ra ngay trong lòng cộng đoàn. Vì thế, bất cứ hoạt động mục vụ nào mà chỉ giới hạn trong lãnh thổ của giáo xứ đều trở nên lỗi thời, đó là điều mà chính người giáo dân nhận thấy khi giáo xứ của họ có vẻ bảo thủ chỉ biết hoài cổ thay vì bạo dạn hướng về tương lai.[31] Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, về phương diện giáo luật, nguyên tắc tòng thổ vẫn có hiệu lực, khi được quy định bởi pháp luật (x. GL 102; 1015-1016; 1108§1”.[32]
Như vậy định hướng truyền giáo của việc mục vụ giáo xứ không còn bị hạn chế trong ranh giới địa lý của giáo xứ, nhưng còn phải vượt ra ngoài ranh giới đó. Cụ thể, các tín hữu của một giáo xứ có thể đến tham gia chương trình truyền giáo của giáo xứ khác, nhất là khi giáo xứ của mình có một vốn nhân sự dồi dào. “Bởi thế, hoạt động mục vụ cần đi ra ngoài ranh giới địa dư của giáo xứ, tạo sự hiệp thông trong Hội Thánh cách rõ ràng cụ thể hơn nhờ biết phối hợp giữa những thừa tác viên và các đặc sủng khác nhau, xây dựng giáo xứ trở thành tác nhân ‘chăm sóc mục vụ cùng nhau’, phục vụ cho giáo phận và sứ mạng của giáo phận”.[33]
Có những hoạt động truyền giáo của một giáo xứ có thể vượt ra ngoài ranh giới của giáo xứ mình, chẳng hạn các chương trình phát sóng trên mạng, những hoạt động từ thiện bác ái, v.v. “Nhằm ưu tiên cho việc Loan báo Tin Mừng và việc chăm sóc mục vụ được hiệu quả hơn, nên tổ chức cho các giáo xứ thuộc cụm những hoạt động mục vụ chung trong một số lãnh vực nhất định (chẳng hạn việc dạy giáo lý, việc bác ái, mục vụ giới trẻ hoặc mục vụ gia đình) với sự tham gia của mọi thành phần Dân Chúa: giáo sĩ, những người sống đời thánh hiến và giáo dân”.[34]
Hơn nữa, công việc truyền giáo cần phải vượt qua khung cảnh quá khứ hay hiện tại, và phải hướng về tương lai. Điều đó có nghĩa là việc truyền giáo không còn được thực hiện theo kiểu xưa bày nay làm, mà cần phải có sự đổi mới để phù hợp với hoàn cảnh hiện tại và cả tương lai. Cần phải có một cái nhìn xa để chuẩn bị đáp ứng cho những đòi hỏi của tương lai, hoặc chủ động chuẩn bị một đường lối truyền giáo cho tương lai để đáp ứng với những thay đổi nhanh chóng của xã hội. Những câu hỏi có thể được đặt ra: cần phải làm gì và phải làm thế nào để các thế hệ tương lai có thể đón nhận Tin mừng?
Tóm lại, “hoán cải mục vụ của cộng đoàn giáo xứ theo hướng truyền giáo được hình thành và thể hiện trong một tiến trình cải tổ dần các cơ cấu; do đó, dẫn đến đổi mới cả những cách thức ủy thác khác nhau việc chăm sóc mục vụ, cũng như các hình thức tham gia khác nhau của mọi thành phần Dân Chúa”.[35] Dựa trên giáo huấn của Đức Phanxicô về một sự hoán cải từ mục vụ bảo tồn sang mục vụ truyền giáo của Giáo Hội nói chung, Huấn thị đã áp dụng vào giáo xứ: “Nếu giáo xứ không sống tinh thần năng động loan báo Tin Mừng, thì có nguy cơ giáo xứ tự quy chiếu vào chính mình và xơ cứng, cho những kinh nghiệm thiếu hương vị Tin Mừng và thiếu lòng nhiệt thành truyền giáo, chỉ biết đến những nhóm nhỏ mà thôi”.[36]
Trên đây chúng ta đã thấy Huấn thị xác định truyền giáo là định hướng chính của công cuộc cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ. Giờ đây chúng ta thử tìm hiểu 2 định hướng song hành, đó là hiệp thông và tham gia. Gọi là những định hướng song hành vì 2 định hướng này đi song song và cùng một hướng với định hướng chính trên một lộ trình, đồng thời góp phần vào việc thực hiện định hướng chính.
Nếu truyền giáo là bản chất của Giáo Hội, thì hiệp thông thuộc về đặc tính “duy nhất” của Giáo Hội: một Giáo Hội “duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”.
Theo Giáo lý của Hội Thánh công giáo, Hội Thánh là duy nhất vì nguồn mạch của mình, đó là mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Hội Thánh là duy nhất vì Đấng Sáng lập của mình: đó là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã nhờ cây thập giá của mình mà giao hòa mọi người với Thiên Chúa, tái lập sự hợp nhất mọi người trong một dân tộc và một thân thể. Hội Thánh là duy nhất vì linh hồn của mình: đó là Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong các tín hữu làm cho các tín hữu hiệp thông với nhau cách kỳ diệu và kết hợp tất cả trong Đức Kitô cách rất mật thiết.[37] “Chính Người, Thần Khí của sự hiệp thông, luôn hiện diện trong Hội Thánh, và do đó Hội Thánh là bí tích lớn của sự hiệp thông của Thiên Chúa, một bí tích quy tụ các con cái Thiên Chúa còn đang tản mác”.[38]
Sự hiệp thông trong Hội Thánh được tuyên xưng trong mầu nhiệm các thánh thông công: đó là sự hiệp thông trong đức tin, sự hiệp thông trong các bí tích, sự hiệp thông các đặc sủng, sự hiệp thông trong đức mến.[39] Công đồng Vaticanô II đã khẳng định: “Thiên Chúa muốn thánh hóa và cứu rỗi con người không phải một cách riêng lẻ và không có bất kỳ mối liên kết nào giữa họ, nhưng Người muốn thiết lập họ thành một Dân nhìn nhận Người trong sự thật và phục vụ Người trong sự thánh thiện”.[40]
Theo Giáo Hội học về Dân Thiên Chúa, khái niệm hiệp thông diễn tả bản chất sâu xa của mầu nhiệm và sứ mạng của Giáo Hội, mà nguồn gốc và chóp đỉnh được tìm thấy nơi việc cử hành Thánh Thể. Trong bối cảnh đó, tính hiệp hành cho thấy cách sống và cách hoạt động đặc thù của Giáo Hội, qua đó Giáo Hội biểu lộ và hiện thực cách cụ thể căn tính hiệp thông của mình trong việc “đồng hành với nhau”, trong việc qui tụ thành cộng đoàn, trong sự tham gia tích cực của tất cả các thành viên vào sứ vụ loan báo Tin Mừng.[41]
Có thể nói giáo xứ là một Hội Thánh thu nhỏ, là sự hiện diện của Hội Thánh tại một địa phương nhất định. Vì vậy sự hiệp thông của Giáo Hội phổ quát cũng phải được thể hiện trong giáo xứ. “Các thành phần khác nhau làm nên giáo xứ được mời gọi hiệp thông và hiệp nhất”.[42] Giáo xứ là một cộng đoàn được Lời Chúa qui tụ xung quanh bàn tiệc Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của toàn thể đời sống Kitô giáo,[43] nhờ đó mọi tín hữu kết thành một thân thể và hiệp thông với nhau trong tình huynh đệ.[44]
Trong Tông huấn Evangelii Gaudium, Đức Phanxicô viết: “Giáo xứ là một cộng đoàn của các cộng đoàn, một thánh điện để những người khát nước đến uống dọc đường, và một trung tâm thường xuyên vươn ra truyền giáo. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng lời kêu gọi duyệt lại và canh tân các giáo xứ của chúng ta vẫn chưa đủ sức đưa các giáo xứ đến gần người dân hơn, biến các giáo xứ trở thảnh những môi trường sống hiệp thông và tham dự, và làm cho giáo xứ trở nên hoàn toàn hướng về truyền giáo”.[45]
Sở dĩ Đức Thánh Cha nói thế là vì hiện nay giáo xứ đang ở trong một bối cảnh mà sự ràng buộc về lãnh thổ rõ ràng càng ít đi và những mối tương quan liên vị có nguy cơ tan biến vào một thế giới ảo không còn có một dấn thân hay trách nhiệm nào đối với người thân cận của mình.[46] Ngoài ra, Giáo Hội nói chung và các giáo xứ nói riêng đang bị ảnh hưởng bởi phong trào tục hóa và cá nhân chủ nghĩa: “Thời đại ngày nay vốn được ghi dấu bởi sự thờ ơ, cá nhân chủ nghĩa và không chấp nhận người khác, nên việc tái khám phá tình huynh đệ là rất quan trọng và cần thiết vì sứ vụ Loan báo Tin Mừng gắn bó mật thiết với các mối quan hệ nhân linh”.[47]
Do đó, nếu muốn đẩy mạnh công cuộc truyền giáo thì trước hết giáo xứ phải củng cố sự hiệp thông, như lời Chúa Giêsu đã nói: “Cứ dấu này người ta sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau” (Ga 13,35). Như vậy, định hướng hiệp thông cũng là một phần trong chương trình cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ để phục vụ sứ vụ loan báo Tin mừng.
Cụ thể, để thực hiện định hướng hiệp thông trên hành trình truyền giáo, các giáo xứ cần phải xây dựng một nền “văn hóa gặp gỡ” lấy con người làm trung tâm, từ đó thúc đẩy việc đối thoại, liên đới và cởi mở đón nhận người khác. Giáo xứ phải là “nơi chốn” đặc biệt cho sự gắn kết mọi người với nhau và nuôi dưỡng các mối tương quan cá nhân lâu bền, từ đó giúp mỗi người cảm nhận mình thuộc về giáo xứ và được yêu thương.[48] Ngoài ra cộng đoàn giáo xứ được mời gọi phát huy “nghệ thuật cảm thông”, nhờ đó giáo xứ sẽ thực sự trở nên một nơi giúp người ta vượt qua sự cô đơn vốn đang ảnh hưởng đến nhiều người.[49]
Sự hiệp thông trong giáo xứ phải bắt đầu từ các linh mục coi sóc giáo xứ, như lời Huấn thị đã viết: “Trước hết, cha sở và các linh mục khác, trong sự hiệp thông với Giám mục, là điểm quy chiếu căn bản cho cộng đoàn giáo xứ, vì sứ vụ mục tử của họ. Cha sở và các linh mục khác, đang khi nuôi dưỡng đời sống chung và tình huynh đệ linh mục, cử hành đời sống bí tích cho cộng đoàn và cùng với cộng đoàn, và được mời gọi tổ chức làm sao để giáo xứ trở nên dấu chỉ thực sự của sự hiệp thông”.[50]
Nên có một sự quan tâm đặc biệt đến đời sống chung giữa các linh mục. Về điều này giáo luật đã khuyến nghị: “Hết sức khuyến khích các giáo sĩ nên có một đời sống chung theo một hình thức nào đó; và ở đâu đã có đời sống chung thì phải duy trì hết sức có thể”,[51] cho dù việc sống chung không phải là một đòi buộc đối với các linh mục triều. Tinh thần hiệp thông được thể hiện qua việc sống chung, cầu nguyện và hoạt động mục vụ chung của các linh mục là một chứng từ hữu hiệu của tình huynh đệ phát sinh từ bí tích truyền chức thánh và giúp cho việc loan báo Tin Mừng được hiệu quả hơn.[52]
Sự hiệp thông của các linh mục không những được thực hiện trong địa bàn một giáo xứ, nhưng có thể mở rộng ra đến một số giáo xứ khác. Đây không phải là một điều gì mới, nhưng đã được qui định trong giáo luật:
“Thêm một khả năng khác nữa là “ở đâu hoàn cảnh đòi hỏi, trách nhiệm mục vụ của một giáo xứ hoặc của nhiều giáo xứ cùng một lúc có thể được ủy thác cách liên đới (“in solidum”) cho nhiều tư tế”.[53] Như thế, tùy từng hoàn cảnh cụ thể đòi hỏi, Giám mục có thể áp dụng cách thận trọng giải pháp này, đặc biệt vì lợi ích của cộng đoàn giáo xứ đương xét nhờ hoạt động mục vụ chung và hiệu quả hơn, và còn để thúc đẩy sống linh đạo hiệp thông giữa các linh mục.[54]
“Trong trường hợp ấy, trong tình hiệp thông với các thành viên khác trong cộng đoàn giáo xứ, nhóm các linh mục cùng quyết định hành động, dưới sự chỉ đạo của vị điều hành – người đứng đầu trong nhóm tư tế (primus inter pares), mà tất cả đều là cha sở thực sự”.[55]
Về vấn đề này, giáo luật quy định: “Nếu trách nhiệm mục vụ của một giáo xứ hoặc nhiều giáo xứ cùng một lúc được trao cho các tư tế cách liên đới, thì mỗi vị trong các ngài, theo quy tắc do chính các ngài thiết lập, buộc phải chu toàn những công việc và những nhiệm vụ của cha sở, được nói đến ở các điều 528, 529 và 530; tất cả các tư tế này đều có năng quyền chứng hôn cũng như mọi quyền miễn chuẩn mà luật dành cho cha sở, nhưng các năng quyền và các quyền này phải được thi hành dưới sự hướng dẫn của vị điều hành”.[56]
Trong khi sống trong tình hiệp thông với nhau, các linh mục quan tâm xây dựng sự hiệp thông của cộng đoàn giáo xứ, bắt đầu từ Hội đồng mục vụ: “Ý nghĩa thần học của Hội đồng Mục vụ được ghi khắc trong thực tại cấu thành Hội Thánh, nghĩa là trong “Thân Mình Đức Kitô”, vốn sinh ra “linh đạo hiệp thông”. Thật vậy, trong cộng đoàn Kitô hữu, sự đa dạng của các đặc sủng và thừa tác vụ phát xuất từ việc tháp nhập vào Đức Kitô và từ ơn huệ của Chúa Thánh Thần sẽ không bao giờ hòa hợp với nhau nếu họ không trở nên “đồng điệu, cảm thấy phải chung tay thực hiện mọi sự và bình đẳng với nhau, luôn có cùng suy nghĩ theo cùng một cách thức”.[57]
“Các thành phần khác nhau làm nên giáo xứ được mời gọi hiệp thông và hiệp nhất. Khi mỗi thành phần đều nhìn nhận vai trò bổ túc của mình trong việc phục vụ cộng đoàn, một mặt, người ta sẽ thấy được thừa tác vụ được thực hiện trọn vẹn qua sự cộng tác giữa cha sở và các linh mục phụ tá của ngài, đàng khác, người ta cũng nhận ra những đặc sủng khác nhau của các thầy phó tế, những người thánh hiến và giáo dân cùng cộng tác để xây dựng thân thể duy nhất của Chúa Kitô (x. 1Cr 12,12).[58]
Bên cạnh định hướng hiệp thông là định hướng tham gia. Hai định hướng này hòa quyện với nhau, hay đúng hơn, chính ý thức về sự hiệp thông làm phát sinh sự tham gia, đến độ có thể nói không thể có sự hiệp thông thực sự nếu không có sự tham gia. Toàn thể Giáo Hội là Thân Mình mầu nhiệm của Đức Kitô và mọi tín hữu là các chi thể của Người, nên có bổn phận tham gia vào việc làm cho thân thể ấy mạnh mẽ và lớn lên mỗi ngày. Tham gia vào sứ vụ loan báo Tin mừng là công việc của toàn thể Dân Chúa chứ không phải của một thành phần nào. Vì vậy Công đồng Vaticanô II đã dạy: “Dân thánh của Thiên Chúa cũng tham gia vào chức vụ ngôn sứ của Chúa Kitô, làm chứng sống động cho Người trước hết bằng đời sống đức tin và đức ái”.[59]
Huấn thị cũng viết: “Dân Chúa là chủ thể và là những người giữ vai trò tích cực trong sứ vụ Loan báo Tin Mừng, bởi từng tín hữu thành viên đã đón nhận ơn của Chúa Thánh Thần trong Bí tích Thánh tẩy và Bí tích Thêm sức. “Được tái sinh vào đời sống thần linh nhờ Bí tích Thánh tẩy là bước đầu tiên; kế tiếp là chúng ta sống tư cách con cái Thiên Chúa, nghĩa là làm sao để nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô là Đấng hoạt động trong Hội Thánh, tích cực tham gia vào sứ mạng của Hội Thánh trong thế giới. Để được như thế, chúng ta cần được xức dầu bởi Thần Khí: “Nếu không có Chúa ban sức, loài người chúng con không là gì cả” (x. Ca tiếp liên Lễ Hiện Xuống). […] Cũng như cả cuộc đời của Chúa Giêsu được Thần Khí thúc đẩy, cũng thế đời sống của Hội Thánh và của mỗi chi thể trong Hội Thánh cũng được chính Thần Khí ấy hướng dẫn”.[60]
Văn kiện chung kết của Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI cũng xác nhận: “Các Kitô hữu, cá nhân hay trong đoàn thể, được mời gọi làm cho các ơn ban của Chúa Thánh Thần sinh hoa trái nhằm làm chứng và loan báo Tin Mứng […]. Trong cộng đoàn Kitô hữu, tất cả những người đã lãnh phép rửa đều có nhiều ân huệ để chia sẻ, mỗi người tùy theo ơn gọi và điều kiện sống riêng của mình”.[61]
Công việc mục vụ và truyền giáo là công việc chung của giáo xứ dưới sự điều hành của cha xứ, chứ không phải là công việc riêng của hàng giáo sĩ. “Thật vậy, chính toàn thể cộng đoàn là chủ thể chịu trách nhiệm về việc truyền giáo, vì Hội Thánh không chỉ là Hàng Giáo phẩm, mà là toàn thể Dân Thiên Chúa.[62]
Để vượt qua quan niệm “giáo sĩ hóa việc mục vụ”, các cha xứ phải mở rộng và vận động sự tham gia của mọi thành phần Dân Chúa vào công việc mục vụ và truyền giáo. Để mỗi người tín hữu ý thức rằng mình là tác nhân của việc Phúc Âm hóa, các linh mục phải khôn ngoan thực hành nghệ thuật phân định để giúp mọi người trong giáo xứ tham gia tích cực vào năng động truyền giáo theo sự phân công hợp tình hợp lý và đúng khả năng của mỗi người. Các linh mục cũng phải dạy dỗ các tín hữu để họ cảm thấy mình có trách nhiệm và trực tiếp tham gia để đáp ứng các nhu cầu mục vụ và truyền giáo, đồng thời cũng có những trợ giúp cả tinh thần lẫn vật chất để mỗi người có thể chu toàn nhiệm vụ của mình cách hiệu quả nhất.[63]
“Sứ mạng của giáo xứ với tư cách là trung tâm phát động chính của công cuộc loan báo Tin Mừng liên quan đến mọi thành phần khác nhau của Dân Thiên Chúa”.[64] “Khi mỗi thành phần đều nhìn nhận vai trò bổ túc của mình trong việc phục vụ cộng đoàn, một mặt, người ta sẽ thấy được thừa tác vụ được thực hiện trọn vẹn qua sự cộng tác giữa cha sở và các linh mục phụ tá của ngài, đàng khác, người ta cũng nhận ra những đặc sủng khác nhau của các thầy phó tế, những người thánh hiến và giáo dân cùng cộng tác để xây dựng thân thể duy nhất của Chúa Kitô” (x. 1Cr 12,12).[65]
Người tham gia chính và quan trọng nhất trong công việc mục vụ và truyền giáo của giáo xứ là linh mục chánh xứ. Chính ngài là đầu mối tạo nên sự tham gia của mọi thành phần Dân Chúa trong giáo xứ. “Trong một Giáo Hội hiệp hành, các linh mục được kêu gọi thi hành việc phục vụ của mình trong thái độ gần gũi với dân chúng, nồng nhiệt tiếp đón và sẵn sàng lắng nghe mọi người, cởi mở theo phong cách hiệp hành”.[66]
Chính vì mối tương quan giữa cha xứ và cộng đoàn giáo xứ phải có sự hiểu biết và gần gũi, nên giáo vụ chánh xứ không thể được giao cho một pháp nhân hay một nhóm người gồm giáo sĩ và giáo dân theo kiểu lãnh đạo tập thể.[67] Tuy nhiên, giám mục giáo phận có thể ủy thác một giáo xứ cho một hội dòng giáo sĩ, với sự đồng ý của Bề trên có thẩm quyền của hội dòng ấy, với điều kiện là chỉ có một linh mục làm cha xứ.[68] Cha xứ phải cổ vũ sự tham gia của các tín hữu vào sứ mạng của Giáo Hội.[69]
“Dù sao đi nữa, việc điều phối hoạt động mục vụ thuộc thẩm quyền của vị linh mục đã được Giám mục giáo phận chỉ định như là người Điều hành; chỉ ngài có đầy đủ các quyền hạn và năng quyền của một cha sở, còn các tín hữu khác chỉ “tham gia vào việc chăm sóc mục vụ giáo xứ”.[70]
Những người tham gia trực tiếp nhất vào việc chăm sóc mục vụ giáo xứ dưới quyền điều hành của cha xứ là các cha phó xứ hay phụ tá. Các linh mục phó xứ hay phụ tá thường được bổ nhiệm cho một giáo xứ, nhưng cũng có thể cho một phần nhất định của một giáo xứ, hoặc đảm trách một lãnh vực nào đó tại các giáo xứ khác nhau như giới trẻ, giới cao niên, người bệnh tật, các đoàn thể, hiệp hội bác ái, đào tạo giáo lý, v.v.[71] “Trường hợp một linh mục làm phó xứ cho nhiều giáo xứ có các cha sở khác nhau làm chánh xứ thì trong sắc lệnh bổ nhiệm phải ghi rõ nhiệm vụ liên quan đến từng giáo xứ, cũng như những việc liên quan đến cha xứ như nơi ăn chốn ở và việc cử hành Thánh lễ”.[72]
Tiếp đến là các phó tế. Nguồn gốc của chức phó tế bắt đầu từ thời các Thánh Tông đồ. Các phó tế là những người được đặt lên để tham gia vào sứ vụ của các Tông đồ trong việc phục vụ bàn thờ, phục vụ bác ái và kể cả rao giảng Tin Mừng. Công đồng Vaticanô II xác định rằng phó tế là một phẩm trật của chức thánh, được hiệp thông với giám mục và linh mục đoàn. Vì vậy các cha xứ phải xếp đặt thế nào để các phó tế tham gia vào công việc mục vụ giáo xứ theo đúng chức năng trong phụng vụ, cũng như trong việc rao giảng và bác ái.[73] Tại Việt Nam các phó tế chỉ là những người chuẩn bị làm linh mục, nên thời gian phục vụ của họ chỉ mang tính tạm thời. Trong khi đó tại nhiều nước khác trên thế giới, các phó tế vĩnh viễn là thành phần tham gia nòng cốt và lâu dài trong trong việc mục vụ giáo xứ. Giáo Hội “nhìn nhận trong sứ vụ này một nguồn quý giá giúp cho sự trưởng thành của một Giáo Hội phục vụ, theo gương Chúa Giêsu, Đấng đã trở thành tôi tớ của mọi người”.[74]
Thêm vào đó, phần lớn các giáo xứ đều có sự hiện diện và phục vụ của các tu sĩ là những người sống đời thánh hiến. Họ hiện diện cách đặc biệt giữa lòng giáo xứ, mang dấu ấn sống triệt để theo Tin Mừng, với những đặc sủng riêng của mình. Ngoài ra, những người nam nữ sống đời thánh hiến cùng với hàng giáo sĩ và giáo dân hòa nhập vào cộng đoàn diễn tả chiều kích đặc sủng của Hội Thánh. Họ tham gia vào sứ mạng truyền giáo của giáo xứ trước hết bằng chứng từ bước theo sát Đức Kitô và bằng hoạt động theo đặc sủng và sứ vụ riêng của họ. Các cha xứ phải khôn ngoan vận dụng sự tham gia của họ vào công việc mục vụ của giáo xứ.[75]
Tuy nhiên, trong một giáo xứ, thành phần tham gia nhiều nhất chính là anh chị em giáo dân. Công đồng Vaticanô II đã dạy: “Giáo dân góp phần tích cực vào đời sống và hoạt động của Giáo Hội, nhờ được tham dự vào chức vụ của Đức Kitô là tư tế, ngôn sứ và là vua. Trong những cộng đoàn của Giáo Hội, hoạt động của họ cần thiết đến nỗi nếu khống có hoạt động đó, chính hoạt động tông đồ của các vị chủ chăn thường không thể đạt được đầy đủ kết quả… Vì được nuôi dưỡng nhờ tham dự cách tích cực vào đời sống phụng vụ của cộng đoàn, chính họ nhiệt thành góp phần vào những công cuộc tông đồ của chính cộng đoàn đó.[76]
Huấn thị cũng dạy: “Cộng đoàn giáo xứ hình thành đặc biệt từ các tín hữu giáo dân[77]; nhờ bí tích Rửa tội, các bí tích Khai tâm Kitô giáo và cả bí tích Hôn phối đối với nhiều người,[78] họ tham gia vào các hoạt động truyền giáo của Hội Thánh, vì ‘ơn gọi và sứ vụ riêng biệt của người tín hữu giáo dân là nỗ lực biến đổi các thực tại trần thế, để sao cho mọi hoạt động nhân loại được Phúc Âm hóa’[79]”.[80]
Người giáo dân trong giáo xứ được mời gọi cộng tác vào sứ vụ loan báo Tin Mừng của giáo xứ trước hết bằng việc làm chứng tá cho Đức Kitô trong môi trường sống hằng ngày và trên mọi cấp độ trách nhiệm, bằng một cuộc sống phù hợp với Tin Mừng. Tiếp đến, họ dấn thân tham gia vào các công việc mục vụ của cộng đoàn.[81] Ngoài việc cộng tác không thường xuyên mà họ có thể đóng góp hằng ngày trong các hoạt động của giáo xứ, họ còn có thể đảm trách những nhiệm vụ thường trực trong một thời gian nhất định, chẳng hạn làm chức việc, làm giảng viên giáo lý, tư vấn hôn nhân, phục vụ nhà thờ, tham gia các đoàn thể và hiệp hội.[82] Người giáo dân cũng có thể nhận lãnh tác vụ Đọc sách và Giúp lễ có tính cách cố định trong một nghi thức phù hợp theo giáo luật điều 230§1 hoặc được trao danh hiệu “thừa tác viên ngoại thường”, theo sự chỉ định của Đấng Bản quyền. Những người này phải có hạnh kiểm tốt, có đời sống gương mẫu, được tuyển chọn và đào tạo cách xứng hợp.[83]
Sự tham gia của mọi thành phần Dân Chúa vào công việc mục vụ và truyền giáo của giáo xứ dựa trên những đặc sủng mà Chúa Thánh Thần ban cho họ. Cha xứ cần phải biết phân định các đặc sủng của giáo dân để trao cho họ những nhiệm vụ hợp lý. Cần phải biết phân định giữa các đặc sủng khác nhau để nhận diện đặc sủng nào nên mang hình thức thừa tác vụ và do đó được trang bị các tiêu chí, công cụ và thủ tục phù hợp. Một Giáo Hội có tính hiệp hành và sứ vụ sẽ khích lệ nhiều hơn nữa các hình thức tác vụ của giáo dân. Tuy nhiên, để một đặc sủng được định hình như một thừa tác vụ, cộng đoàn cần phải xác định nhu cầu mục vụ thực sự.[84]
Huấn thị của Bộ giáo sĩ về việc cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ để phục vụ sứ vụ loan báo Tin Mừng đã đưa ra những định hướng quan trọng trong việc cải tổ: đó là xây dựng một cộng đoàn giáo xứ hiệp thông, tham gia và loan báo Tin Mừng. Đây không phải là điều gì mới, vì cả 3 định hướng này đã nằm trong bản chất của Giáo Hội. Công đồng Vaticanô II đã có công canh tân Giáo Hội và làm cho những định hướng này được chú ý nhiều hơn. Đặc biệt Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium và Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới hôm nay Gaudium et Spes đã góp phần rất lớn vào việc trình bày khuôn mặt Giáo Hội cởi mở và thân thiện hơn. Giáo Hội vừa được xây dựng từ bên trong vừa hướng ra bên ngoài với thế giới.
Đức Thánh Cha Phanxicô gọi đó là một Hội Thánh đi ra. Theo ý tưởng này, Giáo Hội không có ranh giới địa lý như một thực thể quốc gia trần thế, nhưng hiện diện giữa lòng thế giới, trong lòng con người. Giáo xứ là một phần của Giáo Hội phổ quát hiện diện tại một địa phương, nên giáo xứ cũng có những đặc tính của Giáo Hội phổ quát. Do đó, hình ảnh về một Giáo Hội hiệp hành và đi ra của Đức Phanxicô cũng được áp dụng cho các cộng đoàn giáo xứ. Cùng với toàn thể Giáo Hội, cộng đoàn giáo xứ cũng đi ra truyền giáo. Việc truyền giáo đòi hỏi mọi thành phần trong giáo xứ phải hiệp thông với nhau và phải cùng nhau tham gia mọi hoạt động của giáo xứ. Mặc dù mỗi giáo xứ có một lãnh thổ riêng, nhưng Giáo Hội cũng kêu mời các giáo xứ đi ra khỏi ranh giới của mình để hiệp thông và tham gia với các giáo xứ khác trong việc truyền giáo. Như thế sẽ tránh được tình trạng một giáo xứ phát triển thật mạnh, trong khi đó những giáo xứ bên cạnh lại quá yếu vì không được giúp đỡ.
Vì vậy, trong phần kết luận, Huấn thị đã viết: “Điều này đòi hỏi không để cơ chế giáo xứ lịch sử bị giam hãm bất động hay đóng khung trong những việc mục vụ quen thuộc nhàm chán, nhưng trái lại, cần sống sự “năng động đi ra”, bằng cách cùng hợp tác giữa các cộng đoàn giáo xứ khác nhau và sống tình hiệp thông được củng cố giữa giáo sĩ và giáo dân, như thế giáo xứ mới được định hướng một cách hữu hiệu hướng đến sứ vụ Loan báo Tin Mừng, là nhiệm vụ của toàn thể Dân Chúa; một Dân vốn đang lữ hành trong lịch sử như là ‘gia đình của Thiên Chúa’ trong đó các thành viên cùng liên kết làm việc để cho toàn thể Thân mình Hội Thánh phát triển”.[85]
CÁC ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
1. Để phục vụ sứ vụ Loan báo Tin mừng, tại sao cần phải cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ? Đâu là những khiếm khuyết, bất cập, chướng ngại hay phản tác dụng trong việc tổ chức mục vụ giáo xứ hiện nay khiến cho công cuộc truyền giáo không hiệu quả?
2. Nếu xác định việc truyền giáo là định hướng chính của công việc mục vụ giáo xứ thì đâu là những hoạt động ưu tiên mà cha xứ và toàn thể cộng đoàn giáo xứ phải thực hiện? Làm thể nào để thực hiện và đẩy mạnh những hoạt động ưu tiên đó?
3. Những đề nghị cải tổ mà Huấn thị đưa ra có phù hợp với tình hình Giáo Hội tại Việt Nam không? Đâu là những sáng kiến mục vụ mà Huấn thị đã đưa ra nhưng giáo phận chúng ta chưa thực hiện và cần phải thực hiện?
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị Cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ để phục vụ sứ vụ Loan báo Tin mừng. Chuyển ngữ: Gm. Luy Nguyễn Anh Tuấn và Nhóm Dịch thuật HĐGMVN, Nhà xuất bản Tôn giáo, 2020, số 1.
Xem CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc lệnh về Hiệp nhất (Unitatis Redintegratio), số 6.
PHANXICÔ, Kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng hội đồng Giám mục, 17/10/2015.
PHANXICÔ, Tông huấn Niềm vui Tin mừng (Evangelii Gaudium), số 24.
PHANXICÔ, Tông huấn Niềm vui Tin mừng (Evangelii Gaudium), số 119.
Xem THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC THƯỜNG KỲ XVI, Văn kiện chung kết (26.10.2024), số 28.
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 2.
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 123.
GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn hậu Thượng hội đồng Ecclesia in Oceania (22.11.2001), số 19. PHANXICÔ, Tông huấn Niềm vui Tin mừng (Evangelii Gaudium), số 27.
Xem BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 16-26.
Xem THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC THƯỜNG KỲ XVI, Văn kiện chung kết, số 32.
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 20.
Xem CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo Hội (Ad Gentes), số 2, 6.
CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo Hội (Ad Gentes), số 36.
Xem CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo Hội (Ad Gentes), số 6.
Xem CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc lệnh về chức vụ và đời sống linh mục (Presbyterorum Ordinis), số 6.
CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo Hội (Ad Gentes), số 35.
CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc lệnh về tông đồ giáo dân (Apostolicam Actuositatem), số 10. X. PIÔ X, “Tông thư Creationis duarum novarum paroeciarum, 1.6.1905”, trong AAS 38(1905), tr. 65-67; PIÔ XII, “Huấn từ ad fides paroeciae S. Saba, 11.1.1953”, trong Discorsi e Radiomessagi di S.S. Pio XII, 14 (1952-1953) tr. 449-454; GIOAN XXIII, “Huấn từ Clero et christifidelibus diocesi suburbicaria Albanensi, ad Arcem Gandulfi habita, 26.8.1962”, trong AAS 54 (1962), tr. 656-660.
Xem PHANXICÔ, Tông huấn Niềm vui Tin mừng (Evangelii Gaudium), số 20-24.
Xem PHANXICÔ, Tông huấn Niềm vui Tin mừng (Evangelii Gaudium), số 28; BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 29.
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 19.
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 7.
CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc lệnh về nhiệm vụ mục vụ của các giám mục trong Giáo Hội (Christus Dominus), số 30.
GIOAN PHAOLÔ II, “Diễn văn trước tham dự viên Hội nghị Khoáng đại Bộ Giáo sĩ (20.10.1984)”, số 3 và 4, trong Insegnamenti VII/2 (1984), tr. 984 và 985.
BÊNÊĐICTÔ XVI, “Bài giảng khi thăm viếng mục vụ giáo xứ Our Lady Star of Evangelisation, Rome (10.12.2006)”, trong Insegnamenti II/2 (2006), tr. 795.
PHANXICÔ, Tông huấn Niềm vui Tin mừng (Evangelii Gaudium), số 28.
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 12.
Xem PHANXICÔ, Tông huấn Niềm vui Tin mừng (Evangelii Gaudium), các số 72-73.
Xem THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC THẾ GIỚI, “Đại hội khoáng đại thường lệ XV (3-28.10.2018)”, trong L’Osservatore Romano 247 (29-30.10.2018), tr. 10.
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 16.
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 123.
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 60.
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 42.
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 17.
Giáo lý Hội Thánh công giáo, số 813.
Giáo lý Hội Thánh công giáo, số 1108.
Giáo lý Hội Thánh công giáo, các số 949=953.
CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội (Lumen Gentium), số 9.
Xem THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC THƯỜNG KỲ XVI, Văn kiện chung kết, số 31.
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 28.
Xem CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội (Lumen Gentium), số 11.
Xem CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội (Lumen Gentium), số 26.
PHANXICÔ, Tông huấn Niềm vui Tin mừng (Evangelii Gaudium), số 28.
Xem BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 9.
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 24.
Xem BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 25.
Xem BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 26.
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 62; xem CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội (Lumen Gentium), số 26.
Xem BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 63.
Giáo luật, điều 517§1; tham khảo các điều 542-544.
Giáo luật, điều 517§1 và 526§1.
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 76.
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 109.
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 28.
CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội (Lumen Gentium), số 12.
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 110.
THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC THƯỜNG KỲ XVI, Văn kiện chung kết, số 57.
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 38.
Xem BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 39-40.
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 41.
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 28.
THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC THƯỜNG KỲ XVI, Văn kiện chung kết, số 72.
Xem BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 66.
Xem Giáo luật, điều 520§1.
Xem Giáo luật, điều 529§2.
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 91.
Xem BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 78.
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 78.
Xem BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 81.
THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC THƯỜNG KỲ XVI, Văn kiện chung kết, số 73.
Xem BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 83-84.
CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc lệnh về tông đồ giáo dân (Apostolicam Actuositatem), số 10.
Xem PHANXICÔ, Tông huấn Niềm vui Tin mừng (Evangelii Gaudium), số 102.
Xem GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Giám mục Christifideles Laici về ơn gọi và sứ mạng của người giáo dân trong Giáo Hội và thế giới, số 23.
PHANXICÔ, Tông huấn Niềm vui Tin mừng (Evangelii Gaudium), số 201.
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 85.
Xem BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 86.
Xem BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 94.
Xem BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 97.
Xem THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC THƯỜNG KỲ XVI, Văn kiện chung kết, số 66.
BỘ GIÁO SĨ, Huấn thị, số 123.
Tác giả: Gm. Matthêô Nguyễn Văn Khôi